Nền hội họa phương Đông có ảnh hưởng lớn từ Trung Hoa – nền văn minh cổ đại có lịch sử trên 5000 năm, có khởi nguồn liên quan tới văn hóa Thần truyền, văn hóa tu luyện.
Từ xưa, khi con người vẫn còn rất lạc hậu và có tư tưởng đơn thuần, thì họ đã biết sử dụng hình hoạ để ghi lại đạo lý của Phật (hoặc Đạo). Các hình tượng diễn tả hết sức chân thực và sống động các khái niệm về Thiên – Địa – Thần – Nhân, nên cũng khởi được tác dụng mạnh mẽ và đề cao nhận thức của người xem một cách đáng kể.
Chữ giáp cốt được xem là loại văn tự đầu tiên của chữ Hán, cũng là một trong những văn tự cổ đại của Trung Quốc. Người ta đã phát hiện rằng, trên nhiều mảnh xương trinh bốc thuộc thời Thương (khoảng 1766-1122 – TCN) có ghi chép chu kỳ ngày tháng bói toán và vẽ hình một con voi lớn với bên trong là một con voi nhỏ, tượng trưng cho sự cưu mang.
Vậy nên có rất nhiều ý kiến cho rằng, nguồn gốc của hội hoạ và viết chữ (thư pháp) là không thể tách rời. Đây cũng là nguyên nhân ra đời thuyết “Thư hoạ đồng nguyên” trong lịch sử mỹ thuật Trung Quốc.
Hội họa Trung Hoa- Bước tái hiện lịch sử qua từng thời kỳ
Tranh Trung Quốc là sản phẩm của nghệ thuật hội họa truyền thống Trung Hoa.
Nội dung và nghệ thuật sáng tác của các bức họa Trung Quốc phản ánh ý thức dân tộc và óc thẩm mỹ của người dân xứ này, thể hiện nhận thức của người xưa trên các phương diện tự nhiên, xã hội trong mối tương quan với chính trị, triết học và tôn giáo, đạo đức, văn nghệ, vv…
Các bức họa Trung Quốc nhấn mạnh “Ngoại sư tạo hóa, trung đắc tâm nguyên” (Tạm dịch: Học trực tiếp từ tạo hóa, truyền hiểu biết trực tiếp vào tâm), hòa tan cái tôi của mình vào trong vạn vật, sáng tạo ra ý cảnh, yêu cầu “Ý tồn bút tiên, họa tận ý tại” (Tạm dịch: Trước khi cầm bút vẽ thì tâm ý phải tràn đầy, tác phẩm cuối cùng biểu hiện được hết toàn bộ tâm ý của tác giả), đạt tới khả năng “lấy hình tả thần”, “hình thần vẹn toàn”, cấu tứ sinh động.
Nghệ thuật tranh Trung Quốc có lịch sử đã lâu đời. Hơn 2000 năm trước vào thời kỳ Chiến Quốc đã xuất hiện những bức tranh vẽ trên lụa là gấm vóc, còn ở thời kỳ nguyên thủy trước đó nữa đã có những tranh vẽ trên nham thạch và gốm màu. Những tác phẩm hội họa cổ xưa này đã đặt định cơ sở cho phương pháp tạo hình chủ yếu của nền hội họa Trung Quốc về sau.
Thời kỳ Lưỡng Hán và Ngụy Tấn Nam Bắc triều, xã hội từ chỗ ổn định thống nhất nhanh chóng biến thành chia rẽ loạn lạc. Văn hóa bên ngoài Trung Quốc được đưa vào vùng đất này, xảy ra quá trình cọ xát và dung hợp, khiến lúc ấy hội họa có nguồn gốc tôn giáo chiếm vị trí chủ lưu.
Các tranh vẽ miêu tả quê hương, các nhân vật lịch sử, lấy đề tài tác phẩm văn học cũng chiếm một tỉ lệ nhất định. Tranh sơn thủy, tranh hoa điểu cũng bắt đầu xuất hiện ở thời kỳ này.
Thời kỳ Tùy – Đường, kinh tế, văn hóa xã hội hết sức thịnh vượng, hội họa cũng theo đó mà có được cục diện phồn vinh về mọi mặt. Tranh sơn thủy, tranh hoa điểu cũng phát triển hoàn thiện, các tranh về chủ đề tôn giáo đã đạt đến tột đỉnh, tranh vẽ nhân vật phần lớn là mô tả cuộc sống của giới quý tộc, còn xuất hiện những khuôn mẫu tạo hình nhân vật đặc thù của thời đại ấy.
Đời sau các tranh vẽ văn nhân xuất hiện và phát triển, có phương pháp biểu hiện và ý tưởng sáng tác vô cùng phong phú.
“Nhân Vật, Sơn Thủy, Hoa Điểu”- Dùng nghệ thuật để biểu hiện quan niệm và tư tưởng hội họa Trung Hoa
Trong nghệ thuật hội họa Trung Quốc có câu nói “Hội họa phân làm 3 khoa”: nhân vật, sơn thủy, hoa điểu. Bề ngoài giống như là phân loại đề tài, nhưng thực chất là dùng nghệ thuật để biểu hiện một loại quan niệm và tư tưởng.
Cái gọi là “Họa vi tam khoa”, tức là khái quát 3 phương diện vũ trụ cùng với nhân sinh. 3 nhóm ấy cấu thành nên chỉnh thể của vạn vật trong tự nhiên, bổ sung tương hỗ lẫn nhau.
Tranh nhân vật
Tranh nhân vật lấy hình tượng nhân vật làm chủ thể, biểu hiện cho xã hội loài người, quan hệ giữa người với người. Tranh nhân vật Trung Quốc có lịch sử đã lâu đời.
Căn cứ theo các ghi chép, vào thời kỳ Thương Chu đã xuất hiện các bức bích họa. Thời Đông Tấn có Cố Khải Chi chuyên môn vẽ tranh nhân vật, là người đầu tiên đưa ra chủ trương “Lấy hình để tả thần”.
Tranh nhân vật cố gắng truyền đạt lại cá tính của nhân vật một cách hoàn hảo, có cấu tứ sinh động, cả hình và thần đều vẹn toàn. Phương pháp truyền thần của ông là thường khuếch đại biểu hiện của tính cách nhân vật, ở trong hoàn cảnh, bầu không khí, tư thế và động thái.
Các tranh vẽ nhân vật nổi tiếng nhất có quyển “Lạc thần phú đồ” của Cố Khải Chi thời Đông Tấn, bức “Văn uyển đồ” của Hàn Hoảng thời Đường, “Hàn hy tái dạ yến đồ” của Cố Hoành Trung thời Nam Đường, Ngũ Đại.
Muốn vẽ tranh nhân vật được tốt, ngoài việc kế thừa truyền thống, còn phải nghiên cứu hình thể con người, tỉ lệ, và quy luật biến hóa của sự vận động thân thể, mới có thể mô tả hình và thần của nhân vật một cách chuẩn xác.
Tranh sơn thủy
Tranh sơn thủy: biểu hiện quan hệ giữa con người với tự nhiên, đưa con người cùng với tự nhiên hòa hợp thành một thể.
Truyền thống chia tranh sơn thủy thành các loại hình: Thủy mặc, Thanh lục, Kim bích, Một cốt, Thiển giáng, và Đạm thải.
Tranh sơn thủy miêu tả cảnh sắc tự nhiên của núi sông là khoa mục nghệ thuật chủ yếu.
Tranh sơn thủy thời Ngụy Tấn, Nam Bắc triều cũng dần dần phát triển, nhưng vẫn phụ thuộc vào tranh nhân vật, phần lớn dùng làm bối cảnh cho nhân vật.
Thời Tùy Đường bắt đầu tách ra độc lập, như các thể loại: Thiết sắc sơn thủy của Triển Tử Kiền, Kim bích sơn thủy của Lý Tư Huấn, Thủy mặc sơn thủy của Vương Duy, Bát mặc sơn thủy của Vương Hiệp…
Thời Ngũ Đại, Bắc Tống tranh sơn thủy đạt đến thời kỳ cực thịnh, các tác giả xuất hiện rất nhiều, như Kinh Hạo, Quan Đồng, Lý Thành, Đổng Nguyên, Cự Nhiên, Phạm Khoan, Hứa Đạo Ninh, Yến Văn Quý, Tống Địch, Vương Sân, Mễ Phất, Mễ Hữu Nhân với thể loại tranh Thủy mặc sơn thủy.
Vương Hy Mạnh, Triệu Bá Câu, Triệu Bá Túc với Thanh lục sơn thủy.
Hai trường phái Nam Bắc đua tranh phát huy, hình thành 2 phái hệ lớn, đạt tới đỉnh cao nghệ thuật. Từ thời Đường tới nay, mỗi thời kỳ đều có những danh họa chuyên vẽ tranh sơn thủy. Mặc dù họ có thân thế, trình độ tu dưỡng, học phái, phương pháp khác nhau, nhưng đều có thể dùng bút mực, sắc thái, kỹ xảo để mô tả chân thực, khiến cảnh tượng tự nhiên tươi đẹp được chuyển tài vào tranh vẽ, hùng vĩ tráng lệ, cấu tứ thanh nhã.
Thời nhà Nguyên tranh sơn thủy có xu hướng vẽ chấm phá truyền thần, dùng hư tả thực, thiên về bút mực thần vận.
Tranh hoa điểu
Tranh hoa điểu: biểu hiện các loại sinh mệnh trong tự nhiên vĩ đại, cùng chung sống hài hòa với con người.
Trước thời Ngụy Tấn Nam Bắc triều, hoa điểu là đối tượng biểu hiện của nghệ thuật Trung Quốc, liên tục xuất hiện trên các đồ gốm sứ và đồ đồng dưới dạng hoa văn trang trí.
Tranh hoa điểu phần lớn là vẽ chim thú, bởi vì chúng thường thường có liên hệ nhất định với thần thoại, thậm chí có khi là nhân vật thần thoại chính.
Như con Thỏ ngọc giã thuốc cho Vương Mẫu, con Quạ vàng trong vầng Thái dương, con Thiềm thừ trong cung Trăng, cùng với đại biểu của bốn phương vị là Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước và Huyền Vũ. (Rồng xanh, Hổ trắng, Tước đỏ, Rùa đen).
Người ta cho rằng tranh hoa điểu đã trở thành khoa mục độc lập dưới thời Đường, có được thành tựu khá cao. Ngày nay có thể thấy trong các tác phẩm “Chiếu dạ bạch” của Hàn Kiền, “Ngũ ngưu đồ” của Hàn Hoảng cho đến “Bán ngưu đồ” danh tiếng của Đới Tung, đều thể hiện rõ được rằng mảng đề tài này đã có trình độ nghệ thuật tương đối cao.
Còn tiếp…..
Nguồn
Minhhui.org: Văn hóa Thần truyền: Lịch sử lâu đời của nghệ thuật hội họa Trung Quốc
Trithucvn.org: “Khí vận sinh động”: Cái thần trong hội họa Trung Hoa
Trithucvn.org: Tản mạn về một thủ pháp miêu tả trong hội họa
Ntdvn.net: Hội hoạ Truyền thống phương Đông (P1): Bút pháp ‘tả ý’ và ‘văn nhân’
Ntdvn.net: Hội hoạ Truyền thống phương Đông (P2): Tại sao chủ đề hội hoạ luôn xoay quanh tu luyện và tín ngưỡng
Wikipedia: Tranh thủy mặc
Tourtrungquoc.net.vn: Nghệ thuật hội họa truyền thống trung hoa
Epochtimesviet.com: Hội họa cổ đại triển hiện nét bút thần kỳ, khiến bức hoạ trở nên chân thật