GICHIN FUNAKOSHI 船越 義珍 (1868 – 1957)
Không thủ đạo là con đường hoàn thiện bản thân
Karate là một trong năm võ phái nổi tiếng nhất trên thế giới của người Nhật. Môn võ này lừng danh từ sàn đấu UFC cho đến sách báo, phim ảnh và đời thường. Karate không còn giới hạn là một môn võ, nó đã trở thành một thứ văn hóa, có thể gọi là “văn hóa thượng võ”, là cái mà người ta hay nói là “con đường Karate”. Vì sao Karate có thể thành công như thế? Có lẽ do nó có một người khai thủy giảng dạy là một nhà giáo có năng lực, đã truyền dạy Karate như một thứ văn hóa chuẩn mực. Ông chính là đại sư Gichin Funakoshi, tổ sư của Shotokan Karate, một nhà giáo và triết gia đáng kính, người đã khởi đầu “con đường Karate” huyền thoại trải rộng khắp năm châu bốn bể.
Từ Đường Thủ cho đến con đường Karate
Môn võ thuật nổi tiếng nhất của Nhật Bản truy xuất theo nguồn gốc thực thụ thì có thể nói nó không hoàn toàn là võ Nhật. Karate có xuất xứ từ đảo Okinawa, tuy hiện nay đã thuộc Nhật Bản nhưng thời cổ nó là một phần của một vương quốc cổ tên là Lưu Cầu (RyuKyu). Dù người Nhật và người Okinawa khá tương đồng nhau về mặt chủng tộc, nhưng văn hóa của Lưu Cầu cổ xưa lại gần gũi và quan hệ mật thiết với Trung Hoa hơn. Họ thần phục nhà Minh, theo lệ triều cống, xây dựng triều đình kiểu Trung Quốc, dùng chữ Hán và chịu sắc phong của vua Trung Quốc. Vào thế kỷ 14, Lưu Cầu đã thành một cường quốc có nền ngoại thương trên biển vào loại thịnh vượng nhất ở Đông Á, họ là trung tâm trung chuyển hàng hóa giữa Trung Quốc đến các nước Đông Á khác và Đông Nam Á. Sau khi nhà Minh sụp đổ, làn sóng di dân từ Phúc Kiến sang Okinawa tăng vọt, họ đã hòa nhập vào cư dân bản địa và trở thành một thành phần quan trọng tại đây với nhiều đóng góp về văn hóa, kinh tế và dĩ nhiên cả võ thuật. Năm 1879, triều đình Minh Trị Thiên Hoàng giải thể vương quốc Lưu Cầu và sáp nhập vào Nhật Bản trở thành tỉnh Okinawa. Vua Shō Tai (上太王Thượng Thái Vương), vị vua cuối cùng của Lưu Cầu, được chuyển đến Tokyo và được phong làm Hầu tước, cũng như nhiều quý tộc người Nhật khác, và qua đời ở đó năm 1901.
Những nghiên cứu gần đây cho thấy Karate được phát triển trên cơ sở tổng hợp các phương thức chiến đấu của người Lưu Cầu với các môn võ thuật ở phía Nam Trung Quốc nhằm chống lại ách đô hộ hà khắc mà giới cai trị Nhật Bản áp đặt lên dân bản xứ bấy giờ. Tuy nhiên, xuất xứ chính xác của môn võ này còn chưa được xác định, bởi không tìm được thư tịch cổ nào của Vương quốc Lưu Cầu xưa ghi chép về môn võ dân gian này. Dựa trên những thông tin còn lưu lại, người viết cho rằng khả năng cao nhất Karate là có nguồn gốc từ Trung Quốc và Thiếu Lâm Nam Quyền từ Phúc Kiến bởi các lý do sau:
- Tương đồng về loại võ công: Phúc Kiến nổi tiếng với trường phái võ công ngoại gia là Thiếu Lâm Nam Phái chuyên quyền thuật. Karate cũng nổi tiếng với quyền thuật và cũng là môn phái ngoại gia dương cương. Lưu phái Karate cổ xưa nhất của Okinawa mà ngày xưa Đại sư Funakoshi từng học là Shorin-Ryu (Thiếu Lâm Lưu), cái tên đã đủ nói lên nguồn gốc của nó, Thiếu Lâm quyền pháp.
- Tương đồng về địa lý và lịch sử giao thương: Ngôi chùa Nam Thiếu Lâm Phúc Thanh ở Đông Trương Trấn, huyện Phúc Thanh thuộc Phúc Châu là tỉnh lỵ và là thành phố cấp huyện lớn nhất của tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc. Từ Phúc Châu nhìn thẳng ra biển Hoa Đông là quần đảo Okinawa với khoản cách không xa lắm chỉ khoản gần 1000km với giao thương biển vô cùng tấp nập giữa Okinawa và Phúc Kiến suốt mấy trăm năm.
- Tương đồng về nội hàm văn hóa trong quyền thuật: Môn vật Shima và các điệu múa dân gian chỉ có thể bổ sung và địa phương hóa môn võ Trung Hoa biến nó thành Karate chứ không thể nào là nguồn gốc của Karate được. Hãy nhìn vào hệ thống bài quyền của Karate ta sẽ thấy ngay nguồn gốc Trung Hoa vô cùng rõ ràng.
Ví dụ như bài Taikyoku shodan (太極初段) nghĩa là Thái Cực Sơ Đoạn, Heian Shodan (平安初段) là Bình An Sơ Đoạn, Jion (慈恩) là Từ Ân, Meikyō/Rōhai (明鏡) là Minh Kính, Unsu (雲手) là Vân Thủ, Nijūshiho (二十四步) là Nhị Thập Tứ Bộ, Hangetsu (半月) là Bán Nguyệt, Gankaku (岩鶴) là Nham Hạc. Tất cả ý nghĩa và tên bài quyền đều là hình ảnh thường thấy trong võ thuật Trung Hoa như Thái Cực, Hạc, Nguyệt, Vân Thủ..
Trước đây tại Okinawa, môn võ này được gọi là Totei theo ngôn ngữ ở đây, và được viết là 唐手 (Tangsho, Đường thủ, tức các môn võ thuật có gốc từ Trung Hoa). Vào thời kỳ Minh Trị, môn võ này bắt đầu được truyền vào lãnh thổ chính của Nhật Bản, thì chữ 唐手 được phát âm theo tiếng Nhật là Karate và giữ nguyên cách viết này.
Tuy nhiên, do Tangsho 唐手 gợi nhớ đến sự liên quan của Trung Hoa và nguồn gốc Okinawa của nó, sẽ làm môn này khó phát triển mạnh tại Nhật, một quốc gia có tính bài ngoại cao và vô cùng bảo thủ. Nên các võ sư sáng lập đã thay thế chữ 唐 bằng một chữ khác có cùng cách phát âm và mang nghĩa “KHÔNG”, đó là chữ Không 空 trong không gian, không có gì. Tên gọi Karate và cách viết 空手 bắt đầu như vậy từ thập niên 1960. Giống như nhiều môn khác ở Nhật Bản (Trà đạo, Thư đạo, Cung đạo, Kiếm đạo, Côn đạo, Hoa đạo…), karate cũng được gắn thêm vĩ tố “Đạo”, phát âm trong tiếng Nhật là “DO” (viết là 道). Vì thế, có tên Karate-Do. Chữ Đạo 道 này có nghĩa là con đường, Karate Do là con đường Karate hay con đường Không Thủ.
Đại sư Gichin Funakoshi đã viết: “Mục đích tối thượng của Karate không phải nằm ở chiến thắng hay thất bại mà chính là sự hoàn thiện nhân cách của những ai luyện tập nó.”
Vì thế con đường Không Thủ-con đường Karate là con đường giúp võ nhân thông qua võ học mà hoàn thiện nhân cách chính mình, đạt đến võ đạo. Vì sao lại là Không Thủ? Thực chất nội hàm chữ Không 空 trong Không Thủ không phải nói đến tự vệ bằng tay không như nhiều người thường nghĩ. Theo suy luận của người viết, người đặt ra chữ Không 空 này nếu không là đại sư Funakoshi thì chắc hẳn là một cao thủ đệ nhất của môn phái mà phải vô cùng tinh thâm văn hóa cổ truyền ở trình độ rất cao. Vì chữ Không này chính là chọn dùng để biểu ý cho nội hàm của Karate, diễn nghĩa ra chữ Võ, chân nghĩa của Võ Đạo mà hành giả nào cũng muốn đạt đến. Chữ Võ (武) được cấu thành từ chữ Chỉ (止) và chữ Qua (戈). Chữ Chỉ (止) ở đây nghĩa là đình chỉ, hay làm cho dừng lại,Qua (戈) là tên gọi một món võ khí thời cổ. Ý nghĩa bề mặt Võ nghĩa là khả năng có thể tự chế lấy bản thân hay làm cho dừng lại / đình chỉ (止) lại nạn can qua (戈). Nhưng Võ để ngăn can qua thì mới là nghĩa căn bản nhất mà thôi. Đỉnh cao nhất của Võ là Võ Đạo, là đạt đến cảnh giới “vị tha vô ngã”, chính là cái “không” của nhà Phật, cái “Vô” của Đạo gia, thiên nhân hợp nhất, do đó đơn giản là không cần tranh đấu vì bản chất là không có đối thủ do không còn tồn tại sự bất hòa.
Người viết cho rằng vị cao nhân kia chọn chữ “Không” vì ông ta hiểu rằng Karate có nguồn gốc của võ công miền Nam Trung Quốc, tỉnh Phúc Kiến, nơi có ngôi chùa Thiếu Lâm Phúc Kiến và trường phái Thiếu Lâm Nam Phái lừng danh. Mà Thiếu Lâm là ngoại gia công phu của Phật Môn, nên ông chọn chữ “Không” của nhà Phật tượng trưng cho điều đó, vừa kín đáo biểu thị nguồn gốc của bản môn, không làm cho người Nhật khó chịu về cái gốc Trung Hoa và nêu lên cái mục tiêu cao cả mà hành giả Không Thủ cần đạt đến-Võ Đạo.
Karate là một tinh hoa văn hóa truyền thống
Đại sư Funakoshi Gichin (1868 – 1957) 船越 義珍 (Thuyền Việt Nghĩa Trân) sinh ngày 10 tháng 11 năm 1868 tại thủ phủ Shuri-đảo Okinawa-vương quốc Lưu Cầu. Từ nhỏ Funakoshi đã được giáo dục rất bài bản theo văn hóa cổ truyền bằng cả hai thứ tiếng là tiếng Trung và tiếng Nhật, do đó ông được biết đến như một nhà văn hóa, nhà thơ, triết gia, hành giả Thiền tông ngay từ khi chỉ là một người giáo viên trợ giảng tại Okinawa.
Funakoshi đã từng luyện tập 2 phái võ karate nổi tiếng nhất vùng Okinawa thời đó là Shōrei-ryū (Chiêu Linh Lưu- lưu phái Karate của Naha, ảnh hưởng 1 phần bởi Nam quyền Trung Hoa) và Shōrin-ryū (Thiếu Lâm Lưu-lưu phái cổ xưa nhất, có thể coi là nguồn gốc của Karate, cái tên này đã nói lên nguồn gốc của nó). Sau nhiều năm tập luyện, Funakoshi đã tạo ra một phong cách riêng là sự kết hợp của cả hai phái ông từng tập với khoản cách ước lượng và ra đòn của Kendo. Funakoshi cũng đã đổi tên một số bài kata trong ngôn ngữ địa phương vùng Okinawa để người Nhật Bản có thể dễ phát âm nó hơn vì ông luôn mong muốn đưa trường phái Karate của mình phổ biến ở Nhật Bản.
Năm 1902, Funakoshi Gichin từ Okinawa sang Nhật biểu diễn võ thuật tại trường Shintaro Ozawa tỉnh Kagoshima . Hiệu trưởng của trường bị lôi cuốn bởi môn võ mới mẻ này, và có ý muốn đưa Karate vào chương trình đào luyện võ thuật của trường.
Năm 1916, Funakoshi lại được mời biểu diễn võ thuật tại Butokuden (Võ Đức Điện), là nơi được coi là “thánh địa” của các môn phái võ của Nhật.
Tuy nhiên cơ hội thật sự đến với Funakoshi là vào năm 1922, sau khi xem một buổi biểu diễn môn Karate ở Nhật, Nhật Hoàng Hirohito đã tỏ ra rất thích thú và ông đã đề nghị Bộ giáo dục Nhật mời một võ sư Okinawa lừng danh sang biểu diễn.
Thế là vào mùa xuân năm 1922, Funakoshi lại được Bộ trưởng giáo dục Nhật mời sang biểu diễn tại Đại Hội Thể Thao Toàn Quốc ở Tokyo. Chưởng môn của các môn phái đều bị hấp dẫn bởi những tinh hoa của Karate, trong đó có Jigoro Kano, tổ sư của môn phái Nhu Đạo.
Có điểm thú vị là thời điểm đó, ở Okinawa có rất nhiều võ sư Karate nổi tiếng võ công cao cường, ngay cả trong hệ phái mà Funakoshi học cũng có nhiều tiền bối cao thủ hơn ông. Nhưng để đáp ứng yêu cầu của Thiên Hoàng, người ta quyết định chọn Funakoshi vì ông là người võ sư duy nhất vừa có trình độ cao về võ thuật mà còn là một nhà giáo nổi tiếng, tinh thông tiếng Nhật, chuyên gia về văn hóa và lễ nghi cổ truyền Nhật Bản lẫn Okinawa. Việc chọn Funakoshi cho thấy người Okinawa mong muốn quảng bá môn Karate như một văn hóa truyền thống của Đảo Quốc, vì cái mà Funakoshi giỏi nhất không phải chỉ là võ thuật, mà là ở trình độ văn hóa truyền thống uyên thâm của ông. Quyết định chọn Funakoshi có thể coi là quyết định vô cùng sáng suốt của chính quyền Okinawa, nhờ đó mà môn Karate mới phát triển như ngày nay. Lần sang Nhật này thì Funakoshi nhận lời ở lại Nhật Bản để truyền bá môn Karate. Từ đó tên tuổi ông được biết đến và sau này ông được xem như là tổ sư của môn phái Karate vì công phu truyền bá và phát triển môn phái ngày càng lớn mạnh và rộng khắp.
Con đường Không Thủ Đạo Tùng Đào Quán
Đối với các võ sinh, có năm điều huấn thị của đại sư Funakoshi đề ra phải tuân theo gồm có:
- Nỗ lực hoàn thiện nhân cách
- Luôn luôn chân thành
- Nuôi dưỡng tinh thần nỗ lực
- Trọng lễ nghĩa
- Kiềm chế các hành vi nóng nảy
Ngoài ra còn có 20 giới luật của Karate được đại sư viết ra dựa trên các luật lệ của Bushido và Thiền chủ yếu nhấn mạnh sự khiêm tốn, tôn trọng người khác, lòng từ bi, tính kiên nhẫn, và sự bình tĩnh ở cả bên ngoài lẫn nội tâm. Funakoshi tin rằng thông qua luyện tập karate và áp dụng 20 nguyên tắc này trong cuộc sống, người tập võ sẽ cải thiện nhân cách của họ.
Hệ phái Karate của đại sư Funakoshi truyền ra ở Nhật gọi là Shotokan Karate-do (松 濤 館 空 手 道 ) âm Hán Việt là : Tùng Đào Quán Không Thủ Đạo.
Lúc sinh thời chưa bao giờ đại sư đặt tên cho trường phái của mình, nên các môn đồ đã lấy tên võ đường đầu tiên để đặt cho môn phái, đây cũng là bút danh mà ông hay dùng khi viết sách và làm văn thơ.
Tùng Đào (松 濤), có nghĩa là “sóng trên ngọn cây tùng”, mà văn thơ cổ Trung Hoa đã dùng để chỉ tiếng gió rì rào qua những cây tùng trong rừng trên núi. Thơ Âu Dương Huyền đời Nguyên có câu:“ Hạ liêm nguy tọa thính Tùng Đào” 下簾危坐聽松濤 (Mạn đề 漫題) nghĩa là “Buông mành ngồi thẳng nghe tiếng sóng tùng”. Tùng đào là một hình ảnh đẹp mang tính ước lệ, rừng cây tùng là một hình ảnh rất đẹp của tự nhiên, gió rì rào qua ngọn tùng làm cho tâm hồn người ta thanh thản và bình yên. Cây tùng còn tượng trưng cho người quân tử nhân cách cao thượng, gió qua ngọn tùng cũng giống như lan truyền đi phẩm hạnh của người quân tử ra khắp nơi, làm cho lòng mọi người đều vui vẻ hài hòa. Sự vững chãi của cây tùng trên núi cao, lặng lẽ trải bao mùa đông hàng nghìn năm như một hành giả võ đạo miệt mài kiên trì khổ luyện để đạt đến đỉnh cao, khiêm tốn và tĩnh lặng. Có lẽ đây chính là điều mà đại sư Funakoshi muốn các môn đồ của mình đạt đến khi rèn luyện Karate, khi bước đi trên con đường Karate, con đường Tùng Đào Quán, là con đường hoàn thiện bản thân.
Không Thủ là không ra tay trước
Mặc dù là tổ sư của một hệ phái Karate với nhiều môn đồ lừng danh thế giới và nổi tiếng với võ công cao cường của mình, nhưng đại sư Funakoshi luôn lấy bản thân mình làm gương cho tinh thần Không Thủ Đạo, không tấn công trước. Cả đời ông hoàn toàn không hề được biết đến với bất kỳ chiến tích nào để đánh bại bất kỳ ai. Tuy nhiên lại có một lần hiếm hoi ông bất đắc dĩ phải ra tay, và điều này vẫn làm ông ân hận mãi.
Theo “Karatedo, Đạo và Đời”:
“Chuyện xảy ra vài năm sau khi Nhật bại trận vào cuối thế chiến thứ 2. Năm đó, Tổ Sư Funakoshi Gichin (môn Karatedo) “mới có 80 tuổi” (lời của Tổ Sư Funakoshi), phong độ vẫn dồi dào, cử chỉ nhanh nhẹn.
Ông lên chuyến xe lửa cuối cùng về lại Tokyo sau khi dự đêm thơ ở Tamagawa. Vào thời đó Tokyo vẫn hoang tàn, đổ nát, nếu đi một mình vào giờ đó quả là không an toàn một chút nào. Tuy nhiên, Funakoshi Gichin nghĩ là không ai thèm làm khó dễ một ông già 80 ăn mặc dung dị, dáng dấp từ tốn, khoan thai. Từ nhà ga Otsuka, Tổ Sư Funakoshi Gichin đi bộ về nhà cách đó khá xa.
Đột nhiên có một người đàn ông mặc đồ đen xuất hiện từ đằng sau một cabin điện thoại công cộng. Y vỗ vào dù của Tổ Sư:
– Này, ông bạn già!
Tổ sư tưởng gặp một người bạn hay một người quen, bèn lùi lại và giở nón chào. Một thoáng ngỡ ngàng. Tên đàn ông nói tiếp:
– Ông nội có thuốc lá không đấy?
Funakoshi Gichin chợt hiểu mình đang chạm trán với một tên bụi đời hay một tên lưu manh mới vào nghề.
– Tôi không hút thuốc.
Đêm hôm đó, tất cả đồ đạc mà tổ sư Funakoshi mang theo chỉ vỏn vẹn có một cái tay nải, trong đó chỉ có mấy cuốn sách và một hộp cơm đã hết nhẵn.
– Thôi đi ông nội, đừng có phịa. Chắc là trong tay nải có thuốc lá đấy.
Vị võ sư già không nổi giận. Ông ôn tồn trả lời:
– Tôi đã bảo là tôi không hút thuốc. Thôi, xin ông để tôi đi.
Tên kia gạt phăng, vẻ hăm dọa:
– Dẹp đi. Đưa tay nải ra xem.
– Chả có gì đáng giá cả đâu.
– Ôi, khỏi nói nhiều.
Y giật cây dù của tổ sư Funakoshi và trợn mắt nhìn ông như thể sắp ra tay. Tư thế của tên lang thang quá hở, nên khi y vừa dùng dù để tấn công, Funakoshi Gichin đã lách mình qua cây dù và dùng tay phải bóp mạnh vào hạ bộ của y. Chắc hẳn cơn đau rất khốc liệt, và cây dù rơi xuống đất trong khi gã côn đồ thét lên và gập người có vẻ như sắp bất tỉnh.
Ngay lúc đó, đội tuần tra xuất hiện. Tổ sư môn phái Karatedo tiếp tục đi về nhà, để mặc tên lưu manh cho toán cảnh sát xử lý.
Tổ Sư Funakoshi hồi tưởng:
“Về nghĩ lại, tôi cho tên côn đồ đó chẳng qua cũng là một người lính giải ngũ thất nghiệp lang thang và đã bốc đồng làm bậy. Còn tôi, trong lúc nhất thời, tôi đã bất đồ xuất thủ làm một việc mà tôi vẫn tuyệt đối cấm các đệ tử mình. Thật là đáng xấu hổ”.
Lời kết
Năm 1922, khi lên đường sang Nhật, Funakoshi đã làm một bài thơ như sau:
“Shoto
On the island in the sea to the south,
There is transmitted an exquisite art.
This is Karate.
To my great regret,
The art has declined
And its transmission is in doubt.
Who would undertake
The monumental task
Of Restoration and Revival?
This task I must undertake,
Who would if I did not?
I vowed to the blue sky.
Gichin Funakoshi – 1922”
Tạm dịch
Tiếng sóng tùng
Trên một hòn đảo ở biển phía Nam,
Lưu truyền một nghệ thuật tinh tế.
Đây là Karate.
Nhưng nghệ thuật đã suy tàn
Trong sự tiếc nuối vô cùng của tôi
Và sự truyền tải bị nghi ngờ
Ai sẽ đảm nhận
Nhiệm vụ vĩ đại
Phục hồi và hồi sinh?
Nhiệm vụ này tôi phải đảm nhận,
Ai sẽ làm nếu tôi không?
Tôi thề với bầu trời xanh.
Ngày 26 tháng Tư năm 1957, đại sư Funakoshi 89 tuổi giã từ trần thế nhẹ nhàng như những ngọn sóng tùng rì rào. Để lại sau lưng ông là một hệ phái Karate sau này trở nên phổ biến nhất thế giới với hàng triệu môn đồ và những đạo lý Karate trở thành triết lý được nhiều người noi theo khi rèn luyện để bản thân trở nên ngày càng tốt đẹp hơn. Tiếng sóng tùng ngày xưa giờ đã trải khắp năm châu, như ước nguyện “ai cũng có thể tập Karate” của đại sư. Thế mới biết, những tòa thành vĩ đại bắt đầu từ những viên gạch đơn sơ, con đường thiên lý bắt đầu từ những bước chân nặng nhọc đầu tiên. Một vị võ sư bình thường đến từ hòn đảo nhỏ bé lại đem đến điều tốt đẹp vô cùng lớn cho nước Nhật và thế giới vốn đang suy vi về tinh thần này một thứ vô cùng quý giá, con đường Không Thủ Đạo.