Nguồn bài viết: Cohanvan.com
Thiên Tự Văn 千字文 được Châu Hưng Tự 周興嗣 thời Nam Lương biên soạn. Việc sáng tác được tương truyền rằng Lương Võ Đế ra lệnh cho Ân Thiết Thạch chép lại một ngàn từ không trùng lặp trên văn bia do Vương Hi Chi王羲之- một nhà Thư pháp tài hoa bật nhất Trung Hoa thời Đông Tấn – viết để cho các hoàng tử lấy đó học tập. Nhưng do các chữ đều rời rạc, không liền nhau, cho nên ông cho gọi Châu Hưng Tự và bảo rằng: “Khanh có tài, hãy giúp ta vần bài này.” Chu Hưng Tự bỏ ra một đêm để biên soạn lại và dâng lên cho Võ Đế. Từ đó xuất hiện “Thiên Tự Văn” (bản văn đúng một ngàn chữ, một ngàn từ vựng) truyền đến ngày nay.
Trong Thiên Tự Văn có nhiều vế đối tinh tế, mạch lạc rõ ràng, có chất thi ca, khiến người người thán phục. Câu văn tự nhiên như lời nói, dễ đọc dễ nhớ, là cuốn sách vỡ lòng dành cho trẻ con.
Ngoài việc học từ sách Thiên Tự Văn, ngày nay các Nhà Thư Pháp thường dùng bản văn này để luyện tập thư pháp.
Toàn văn chia làm 25 đoạn và phân thành sáu phần, xin lấy các chữ trong mỗi câu đầu để đặt tựa.
Mục lục
- A – Thiên Địa Huyền Hoàng
- B – Tứ Đại Ngũ Thường
- C – Đô Ấp Hoa Hạ
- D – Trị bản ư nông
- E – Đam độc ngoạn thị
- F – Bố Xạ Liêu Hoàn
THIÊN TỰ VĂN
A – Thiên Địa Huyền Hoàng
Mở đầu Thiên Tự Văn nói về thời khởi nguyên của trời đất. Khi ấy vũ trụ còn hoang vu, mờ mịt. Mặt trời và mặt trăng thay nhau canh giữ ngày đêm. Khí trời quanh năm hết nóng rồi tới lạnh, mưa gió tuần hoàn, dần dần vạn vật và cây trái được hình thành.
Tiếp đến là sự xuất hiện của con người thời thượng cổ, tên các nhân vật truyền thuyết có công tạo lửa, sáng tạo áo quần và chữ viết được nêu lên để ca tụng. Mọi thứ đầy đủ rồi thì chế độ vua tôi ở thời kỳ đầu cũng hình thành, cảnh vật thanh bình cũng hiện ra trước mắt.
THIÊN ĐỊA HUYỀN HOÀNG
天地玄黃,宇宙洪荒
Thiên địa huyền hoàng, vũ trụ hồng hoang.
日月盈昃,辰宿列張
Nhật nguyệt doanh trắc, thần tú liệt trương.
寒來暑往,秋收冬藏
Hàn lai thử vãng, thu thâu đông tàng.
閏餘成歲,律呂調陽
Nhuận dư thành tuế, luật lữ điệu dương.
雲騰致雨,露結為霜
Vân đằng trí vũ, lộ kết vi sương.
Tạm dịch:
- Bầu trời tối đen, mặt đất có màu vàng; vũ trụ bao la, hoang sơ và hổn độn.
- Mặt trời lên cao rồi xế dần, mặt trăng tròn sáng rồi lại khuyết; sao hôm sao mai chia ra ngày đêm.
- Lạnh tới nóng đi; mùa thu thì thu hoạch để tàn trữ cho mùa đông.
- Tích lại một năm có dư ngày gọi là năm nhuận; dùng qui tắc “lục luật lục lữ” để điều tiết âm dương.
- Mây bay lên gặp lạnh thành mưa; hơi sương vào đêm lạnh ngưng tụ thành sương mù.
Thuở trời đất mới sinh ra bầu trời thì tối đen, mặt đất có màu vàng. Vũ trụ hình thành trong trạng thái hoang sơ, hổn độn và mờ mịt. Ban ngày mặt trời từ từ lên cao tới đỉnh đầu rồi xế dần, mặt trăng ban đêm mỗi tháng tròn đầy rồi lại khuyết. Sao hôm và sao mai phân chia ngày và đêm. Tiết trời hết lạnh rồi tới nóng, mùa thu thì thu hoạch để tàn trữ cho mùa đông. Một năm tích lũy lại có ngày dư thừa là năm nhuận. Người xưa dùng cách tính “lục luật lục lữ” để điều hòa âm dương. Hơi nước bốc lên thành mây bay rong rõi khắp nơi rồi gặp lạnh tụ lại mà thành mưa. Hơi sương vào đêm gặp tiết trời lạnh đọng lại kết thành sương mù.
KIM SINH LỆ THỦY
金生麗水,玉出崑岡
Kim sinh Lệ Thủy, ngọc xuất Côn Cương
劍號巨闕,珠稱夜光
Kiếm hiệu Cự Khuyết, châu xưng Dạ Quang
果珍李柰,菜重芥薑
Quả trân lý nại, thái trọng giới khương
海鹹河淡,鱗潛羽翔
Hải hàm hà đạm, lân tiềm vũ tường
Tạm dịch:
- Vàng sinh ra từ sông Lệ; ngọc thạch xuất xứ từ núi Côn Luân.
- Kiếm nổi tiếng hiệu là “Cự Khuyết”, trân châu quý gọi là “Dạ Quang”
- Quả quý là mận và táo, rau được xem trọng là cải và gừng.
- Nước biển mặn, nước sông nhạt; cá bơi dưới nước, chim bay trên trời.
LONG SƯ HỎA ĐẾ
龍師火帝,鳥官人皇
Long Sư Hỏa Đế, Điểu Quan Nhân Hoàng
始制文字,乃服衣裳
Thủy chế văn tự, nãi phục y thường
推位讓國,有虞陶唐
Thôi vị nhượng quốc, Hữu Ngu Đào Đường
吊民伐罪,周發殷湯
Điếu dân phạt tội, Chu Phát Ân Thang
Tạm dịch:
- Long Sư, Hoả Đế, Điểu Quan, Nhân Hoàng là tên vua quan thời cổ.
- Bắt đầu sáng tạo ra chữ viết; rồi bèn chế ra quần áo để che thân.
- Nhường ngai vàng cho hiền nhân có Vua Nghiêu, Vua Thuấn
- Làm yên lòng bách tính, thảo phạt bạo quân, có Cơ Phát nhà Chu, Thành Thang nhà Ân
TỌA TRIỀU VẤN ĐẠO
坐朝問道,垂拱平章
Tọa triều vấn đạo, thùy củng bình chương
愛育黎首,臣伏戎羌
Ái dục lê thủ, thần phục Nhung Khương
遐邇壹體,率賓歸王
Hà nhĩ nhất thể, suất tân quy vương
鳴鳳在樹,白駒食場
Minh phượng tại thụ, bạch câu thực trường
化被草木,賴及萬方
Hóa bị thảo mộc, lại cập vạn phương
Tạm dịch:
- Ngồi ở trong triều bàn hỏi về đạo, lời lẽ của bề trên, sự cung kính của kẻ dưới đều công chính, rõ ràng.
- Yêu quý dân chúng, nuôi dưỡng tướng lĩnh; Tộc người Nhung Khương sẽ xưng thần.
- Xa gần qui về một mối, toàn tâm nguyện khuất phục nhà vua.
- Chim phượng hoàng kêu trên cây; con ngựa nhỏ màu trắng ăn cỏ trên cánh đồng lớn.
- Sự cảm hóa bao trùm lên cả cỏ cây, mang ân huệ đến khắp nơi.
B – Tứ đại ngũ thường
Phần thứ hai này nói về những vấn đề liên quan trực tiếp đến mỗi con người, từ thân thể tóc tai đến cách ứng xử, lẽ sống ở đời.
Trước tiên là khuyên ta hãy giữ gìn thể chất. Con trai hay con gái đều phải biết noi theo những tấm gương tiêu biểu. Các trang đức hạnh thời xưa được nêu lên như nhắc nhở.
Tiếp đến là cách biểu hiện trên nét mặt, cách ăn nói đi đứng, việc học hành rồi đến khi ra làm quan, cách ứng xử trong công việc, sự đối dãi với những người thân, sự cung kính với người bề trên. Đoạn cuối phần này nói về việc giao kết với bạn bè, xã hội.
Chỉ mục
- 05 Cái thử thân phát
- 06 Mặc bi ti nhiễm
- 07 Tư phụ sự quân
- 08 Dung chỉ nhược tư
- 09 Lạc thù quý tiện
- 10 Giao hữu đầu phận
CÁI THỬ THÂN PHÁT
蓋此身髮,四大五常
Cái thử thân phát, tứ đại ngũ thường.
恭惟鞠養,豈敢毀傷
Cung duy cúc dưỡng, khởi cảm hủy thương.
女慕貞絜,男傚才良
Nữ mộ trinh kiết, nam hiệu tài lương.
知過必改,得能莫忘
Tri quá tất cải, đắc năng mạc vong
罔談彼短,靡恃己長
Võng đàm bỉ đoản, mị thị kỷ trường
信使可覆,器慾難量
Tín sử khả phục, khí dục nan lượng
Tạm dịch:
- Thân thể con người ta do tứ đại mà thành; lời nói, hành động phải hợp với lẽ ngũ thường.
- Tôn kính những người đã cưu mang và dưỡng dục, chớ có làm tổn thương thân thể của mình.
- Con gái phải biết ngưỡng mộ người trinh phụ khiết nữ; con trai noi theo những người tài đức.
- Biết sai phải sửa; đạt được một năng lực nào đó thì không thể quên được.
- Chớ bàn tán điểm yếu của người khác, đừng ỷ vào điểm mạnh của mình.
- Lời nói thật hay giả thì qua thời gian mới biết, tính khí và lòng ham muốn thì khó đo lường.
MẶC BI TI NHIỄM
墨悲絲染,詩讃羔羊
Mặc bi ti nhiễm, thi tán Cao Dương
景行維賢,剋念作聖
Cảnh hành duy hiền, khắc niệm tác thánh.
德建名立,形端錶正
Đức kiến danh lập, hình đoan biểu chính.
空穀傳聲,虛堂習聽
Không cốc truyền thanh, hư đường tập thính.
禍因惡積,福緣善慶
Họa nhân ác tích, phúc duyên thiện khánh.
尺璧非寶,寸陰是競
Xích bích phi bảo, thốn âm thị cạnh.
Tạm dịch:
- Mặc Tử than thở khi thấy tơ tầm bị nhuộm. Kinh Thi ca ngợi người liêm khiết thanh cao.
- Phẩm hạnh cao quí thường chỉ thấy ở hiền nhân; ghi nhớ trong tâm những điều thánh nhân đã làm.
- Tạo dựng cái đức rồi mới lập cái danh, hình dáng đoan trang biểu lộ được sự chính trực.
- Cái hang có không gian lớn thì truyền được âm thanh; sảnh đường rộng thì tiếng nói có thể nghe được rõ ràng.
- Tai họa là do điều ác tích lại. Hạnh phúc có duyên cớ từ việc thiện mà thành.
- Ngọc bích dài một thước không hẳn là quí; một tấc ánh sáng lại tranh giành nhau.
TỰ PHỤ SỰ QUÂN
資父事君,曰嚴與敬
Tư phụ sự quân, viết nghiêm dữ kính.
孝當竭力,忠則盡命
Hiếu đương kiệt lực, trung tắc tận mệnh.
臨深履薄,夙興溫凊
Lâm thâm lý bạc, túc hưng ôn sảnh.
似蘭斯馨,如鬆之盛
Tự lan tư hinh, như tùng chi thịnh.
川流不息,淵澂取映
Xuyên lưu bất tức, uyên trừng thủ ánh.
Tạm dịch:
- Giúp cha, hầu việc vua phải nghiêm túc và cung kính
- Hiếu thảo phải tận tâm tận lực, trung thành thì bất kể sinh mạng.
- Vào rừng sâu, gặp nguy hiểm; thức khuya dây sớm để lo đông ấm, hè mát.
- Tựa như cây lan tỏ hương thơm lừng; như cây tùng xanh tốt.
- Thường xuyên như dòng nước chảy không ngừng; vượt vực sâu làm trong dòng nước, giữ cho ánh mắt trời phản chiếu.
DUNG CHỈ NHƯỢC TƯ
容止若思,言辭安定
Dung chỉ nhược tư, ngôn từ an định.
篤初誠美,愼終宜令
Đốc sơ thành mỹ, thận chung nghi lệnh.
榮業所基,籍甚無竟
Vinh nghiệp sở cơ, tịch thậm vô cánh.
學優登仕,攝職從政
Học ưu đăng sĩ,nhiếp chức tùng chính.
存以甘棠,去而益詠
Tồn dĩ Cam Đường, khứ nhi ích vịnh
Tạm dịch:
- Dung mạo nghiêm chỉnh như lúc trầm tư, lời nói phải bình thản.
- Trung thực từ đầu thì sẽ tốt; nhưng thận trọng đến cùng thì mới được.
- Sự nghiệp vinh hiển là nhờ lập được cái nền tản; tiếng tăm không ngừng vang dội.
- Học xuất sắc sẽ lên làm quan; có chức vị và ra làm chính sự.
- Lúc làm quan thì lấy tích Cam đường mà soi xét, lúc đi rồi mà còn có ích, được ca tụng.
LẠC THÙ QUÝ TIỆN
樂殊貴賤,禮別尊卑
Lạc thù quý tiện, lễ biệt tôn ti.
上龢下睦,夫唱婦隨
Thượng hòa hạ mục, phu xướng phụ tùy.
外受傅訓,入奉母儀
Ngoại thụ phó huấn, nhập phụng mẫu nghi.
諸姑伯叔,猶子比兒
Chư cô bá thúc, do tử bỉ nhi.
孔懷兄弟,同氣連枝
Khổng hoài huynh đệ, đồng khí liên chi.
Tạm dịch:
- Vui thú có phân biệt sang hèn; lễ tiết phân chia địa vị cao thấp.
- Kẻ trên người dưới ứng xử thuận hòa; Chồng đốc suất, vợ thuận theo.
- Ở bên ngoài thì tiếp thu lời thầy; về nhà tuân lời mẹ.
- Biết đối đãi với chú bác cô dì; coi cháu như con đẻ.
- Anh em nhớ thương, giúp đỡ lẫn nhau, vì cùng chung huyết thống, như cây liền cành.
GIAO HỮU ĐẦU PHẬN
交友投分,切磨箴規
Giao hữu đầu phận, thiết ma châm quy.
仁慈隱惻,造佽弗離
Nhân từ ẩn trắc, tạo thứ phất ly.
節義廉退,顛沛匪虧
Tiết nghĩa liêm thối, điên phái phỉ khuy.
性靜情逸,心動神疲
Tính tĩnh tình dật, tâm động thần bì.
守真誌滿,逐物意移
Thủ chân chí mãn, trục vật ý di.
堅持雅操,好爵自縻
Kiên trì nhã thao, hảo tước tự mi.
Tạm dịch:
- Kết bạn phải hợp nhau, thân phận tương đồng; cùng mài mò học tập, khuyên răn nhau.
- Yêu người và có lòng thương xót; xây dựng và giúp đỡ nhau không nên chia cách.
- Tiết, nghĩa, liêm, thói là bốn phẩm đức; lúc hoạn nạn, khốn khó không được phụ lòng.
- Tính cách bình tĩnh, thanh thản thì tình cảm sâu kín. Tư tưởng, lòng dạ bị động thì tinh thần mệt mỏi.
- Giữ gìn sự chân thật thì cái chí sẽ được mãn nguyện; theo đuổi vật chất thì cái ý sẽ dễ thay đổi.
- Cố giữ vững phẩm hạnh cao thượng, chức tước tốt đẹp sẽ tự tìm đến.
C-Đô Ấp Hoa Hạ
Phần thứ ba này nói về đền đài, cung điện, các địa danh và văn vật gắn liền với nền văn minh Trung Hoa. Qua đó nêu lên tên tuổi của những danh thần, tướng lĩnh đã giúp các bậc đế vương gây dựng cơ đồ. Những con người kiệt xuất, đa tài lừng danh trong thiên hạ cũng được nhắc đến.
Tiếp theo là đề cập đến các cuộc chiến khốc liệt thời Chiến Quốc với các điển tích chịu ảnh hưởng của học thuyết phái Tung Hoành cùng với những người trước tác ra nó. Sau cùng là các vùng địa lý có địa hình rất đặc biệt ở đất nước Trung Hoa.
ĐÔ ẤP HOA HẠ
都邑華夏,東西二京
Đô ấp Hoa Hạ, đông tây nhị kinh
背邙面洛,浮渭據涇
Bội Mang diện Lạc, phù Vị cứ Kính
宮殿盤鬱,樓觀飛驚
Cung điện bàn uất, lâu quan phi kinh
圖寫禽獸,畫綵仙靈
Đồ tả cầm thú, họa thải tiên linh
丙舍傍啟,甲帳對楹
Bính xá bàng khải, giáp trướng đối doanh
Tạm dịch:
- Đất kinh đô có hai kinh là Đông và Tây.
- Đông kinh lưng dựa núi Mang, mặt hướng ra sông Lạc; Tây Kinh trước mặt là sông Vị, sau lưng là sông Kính
- Cung điện quanh co sầm uất, lâu đài cao ngút khiến người ta sợ hãi.
- Hình vẽ miêu tả loài vật, tranh màu vẻ các vị tiên và thần linh.
- Đền thờ phụ ở hai bên, bức trướng (màn) treo ở bên ngoài hướng về phía các cột điện cao lớn.
TỨ DIÊN THIẾT TỊCH
肆筵設席,鼓瑟吹笙
Tứ diên thiết tịch, cổ sắt xuy sanh.
升階納陛,弁轉疑星
Thăng giai nạp bệ, biện chuyển nghi tinh.
右通廣內,左達承明
Hữu thông Quảng Nội, tả đạt Thừa Minh.
既集墳典,亦聚羣英
Ký tập phần điển, diệc tụ quần anh.
杜稾鍾隸,漆書壁經
Đỗ cảo Chung lệ, tất thư bích kinh.
Tạm dịch:
- Yến tiệc bày ra trên chiếu; khua trống đánh đàn sắt, thổi sênh cùng ca múa.
- Các bậc thềm dọc hai bên dẫn lên bệ vua ngồi, quan nhỏ đi lại bên dưới.
- Bên phải thông đến điện Quảng Nội; bên trái dẫn đến điện Thừa Minh.
- Có tập sách tam phần ngũ điển; có giữ sách vỡ của các vị anh tài kiệt suất.
- Chữ Thảo (cảo) của họ Đỗ, chữ Lệ của học Chung; Còn có quyển kinh viết trên thẻ tre xưa dấu trong tường.
PHỦ LA TƯƠNG TƯỚNG
府羅將相,路俠槐卿
Phủ la tương tướng, lộ hiệp hòe khanh.
戶封八縣,家給千兵
Hộ phong bát huyện, gia cấp thiên binh.
高冠陪輦,驅轂振纓
Cao quan bồi liễn, khu cốc chấn anh
世祿侈富,車駕肥輕
Thế lộc xỉ phú, xa giá phì khinh.
Tạm dịch:
- Trong dinh thự đông đảo tướng lĩnh; Phía ngoài đường có nhiều người nghĩa hiệp, quan chức, khách khanh.
- Mỗi hộ quan được phong tám huyện, mỗi nhà nuôi đủ một ngàn binh.
- Đội mũ cao, đi bằng xe có người phụ tá, có người ruổi ngựa, có người đẩy xe, dừng xe, có người nắm dây dàm.
- Bổng lộc to lớn, dồi dào. Xe cộ có loại lớn rộng, có loại tầm thường.
SÁCH CÔNG MẬU THỰC
策功茂實,勒碑刻銘
Sách công mậu thực, lặc bi khắc minh.
磻溪伊尹,佐時阿衡
Bàn Khê Y Duẫn, tả thời a hành.
奄宅曲阜,微旦孰營
Yểm trạch Khúc Phụ, vi Đán thục doanh.
桓公匡合,濟弱扶傾
Hoàn Công khuông hiệp, tế nhược phù khuynh.
綺迴漢惠,說感武丁
Ỷ hồi Hán Huệ, thuyết cảm Vũ Đinh.
俊乂密勿,多士寔寧
Tuấn nghệ mật vật, đa sĩ thực ninh.
Tạm dịch:
- Công lao, sự nghiệp của những người tài giỏi được ghi vào sách một cách chân thật; tạc bia để lại, ghi nhớ không quên.
- Chuyện trên sông Bàn Khê, chuyện ông Y Doãn; phụ giúp triều đình làm chức đại quan chấp chánh.
- Nước Yểm ở đất Khúc Phục, chẳn phải là Cơ Đán thì ai có thể cai quản được?
- Hoàn Công cứu giúp và tập hợp chư hầu; giúp đỡ nước yếu và phù trợ nhà Chu khi bị nguy ngập.
- Ỷ Lý trở lại triều đình mà Hán Huệ được giữ ngôi; truyền thuyết Vũ Đinh cảm mộng thấy hiền thần.
- Người tài giỏi kế tiếp thay nhau yên định thiên hạ; nhiều kẻ sĩ sống một đời chân thật, yên ổn.
TẤN SỞ CANH BÁ
晉楚更霸,趙魏困橫
Tấn Sở canh bá, Triệu Ngụy khốn hoành
假途滅虢,踐土會盟
Giả đồ diệt Quắc, tiễn thổ hội minh
何遵約法,韓弊煩刑
Hà Tuân ước pháp, Hàn tệ phiền hình
起翦頗牧,用軍最精
Khởi Tiễn Pha Mục, dụng quân tối tinh
宣威沙漠,馳譽丹青
Tuyên uy sa mạc, trì dự đan thanh
Tạm dịch
- Tấn, Sở thay nhau xưng bá; Triệu, Ngụy bị vây khốn bởi thuyết Liên Hoành
- Mượn đường diệt nước Quắc; giẫm đạp lên nhau để dành đất, phân chia cương vực rồi gặp nhau cùng thề.
- Tiêu Hà dựa theo chế định lập ra pháp luật; Hàn Phi sầu lo về hình pháp mà mình đặt ra.
- Bạch Khởi, Vương Tiễn, Liêm Pha, Lý Mục là những người giỏi quân đội nhất.
- Oai quyền truyền rộng khắp nơi, đến tận miền sa mạc, tiếng tăm vang khắp thiên hạ; công trạng được lưu trong sử sách.
CỬU CHÂU VŨ TÍCH
九州禹跡,百郡秦并
Cửu châu Vũ tích, bách quận Tần tịnh.
嶽宗恆岱,禪主云亭
Nhạc Tông Hằng Đại, thiện chủ Vân Đình.
雁門紫塞,雞田赤城
Nhạn Môn tử tái, Kê Điền xích thành.
昆池碣石,鉅野洞庭
Côn Trì Kiệt Thạch, Cự Dã Động Đình.
曠遠緜邈,巖岫杳冥
Khoáng viễn miên mạc, nham tụ yểu minh.
Tạm dịch
- Chín Châu điều có dấu tích của vua Vũ; nhà Tần hợp nhất trăm quận.
- Núi cao lớn nhất là Thái Sơn còn gọi là Đại Tông, Đại Nhạc. Các vị vua truyền ngôi làm lễ ở núi Vân Sơn và Đình Sơn.
- Thành Nhạn môn có màu tím là đất hiểm yếu ngoài biên giới; Dịch trạm biên cương ở Kê Điền là thành màu đỏ.
- Hồ Điền Trì ở Côn Minh, núi Kiệt Thạch; đầm Cự Dã, hồ Động Đình
- Mênh mong, sâu thẩm, dài dằn dặc và xa tít; Ngọn núi cao ngất hiểm trở, hang núi thâm u, mờ mịt, sâu xa.
D-Trị bản ư nông
治本於農,務茲稼穡
Trị bản ư nông, vụ tư giá sắc
俶載南畝,我藝黍稷
Thục tái nam mẫu, ngã nghệ thử tắc
稅熟貢新,勸賞黜陟
Thuế thục cống tân, khuyến thưởng truất trắc
Tạm dịch
- Trị quốc lấy nông nghiệp làm gốc, chuyên việc cày cấy, trồng trọt và gặt hái.
- Mỗi năm lại bắt đầu, đất ruộng rộng lớn ở phương Nam; nghề của ta là trồng lúa mùa và lúa tắc.
- Được mùa thì nộp thuế, cống nạp bằng lúa mới chính; khuyến khích, khen thưởng, hay cách chức hoặc thăng quan.
MẠNH KHA ĐÔN TỐ
孟軻敦素,史魚秉直
Mạnh Kha đôn tố, Sử Ngư bỉnh trực
庶幾中庸,勞謙謹敕
Thứ kỉ Trung Dung, lao khiêm cẩn sắc
聆音察理,鑑貌辨色
Linh âm sát lý, giám mạo biện sắc
貽厥嘉猷,勉其祗植
Di quyết gia du, miễn kì chi thực
Tạm dịch
- Mạnh Kha tôn sùng sự thanh khiết, Sử quan Tử Ngư giữ gìn sự cương trực
- Đạo Trung Dung ngõ hầu là cần lao, khiêm tốn, cẩn thận và cảnh giới.
- Nghe người khác nói cần xem xét lý lẽ; nhìn diện mạo của ai thì phải phân tích sắc mặt.
- Cái để lại đời sau cốt yếu là điều tốt lành, có đạo lý và phép tắc; khuyến khích mọi người tôn kính và dựa vào điều ấy.
TỈNH CUNG KỴ GIỚI
省躬譏誡,寵增抗極
Tỉnh cung cơ giới, sủng tăng kháng cực.
殆辱近恥,林皋幸即
Đãi nhục cận sỉ, lâm cao hạnh tức.
兩疏見機,解組誰逼
Lưỡng Sơ kiến cơ, giải tổ thùy bức.
索居閒處,沈默寂寥
Tác cư gian xứ, trầm mặc tịch liêu.
求古尋論,散慮逍遙
Cầu cổ tầm luận, tán lự tiêu dao.
欣奏累遣,慼謝歡招
Hân tấu lũy khiển, thích tạ hoan chiêu.
Tạm dịch
- Xét lại bản thân mình khi nghe lời cảnh báo, khuyên bảo; quá mức nuông chiều thì dẫn đến chỗ tận cùng.
- Khi chịu sự khuất phục, nhẫn nhục thì sắp gặp phải điều hỗ thẹn; qui ẩn sơn lâm thì điều may mắn sẽ đến lập tức;
- Hai người họ Sơ thấy được những điều then chốt, có tầm nhìn xa; họ đã từ chức mà không ai chờ đến lúc bức bách.
- Ở ẩn một mình trong không gian mênh mông; sống đời an nhàn êm đềm, vắng lặng.
- Tìm hiểu người xưa việc cũ, các luận thuyết; mối ưu tư sẽ tan biến, cuộc sống trở nên ung dung không còn bó buộc.
- Mừng đến, mối lo không còn; sự buồn rầu biến mất, sự vui vẻ tìm về.
CỪ HÀ ĐÍCH LỊCH
渠荷的歷,園莽抽條
Cừ hà đích lịch, viên mãng trừu điều
枇杷晚翠,梧桐早凋
Tì bà vãn thúy, ngô đồng tảo điêu
陳根委翳,落葉飄颻
Trần căn ủy ế, lạc diệp phiêu diêu
遊鵾獨運,凌摩絳霄
Du côn độc vận, lăng ma giáng tiêu
Tạm dịch
- Hoa sen bên bờ kênh trắng xóa khắp một vùng; bụi cỏ um tùm trong vườn đâm chòi nảy lộc.
- Cây Tì bà (sơn trà) già cỗi mà còn xanh biếc trong hoàng hôn; cây Ngô đồng rụng lá tan tác lúc ban mai.
- Gốc cây già nua, ngọn cây tựa như cái lộng xe vua; Lá rụng trong tiếng gió thổi nhẹ nhàng.
- Chim Côn một mình bay lượng; lao lên tận tầng mây đỏ thẩm của ráng chiều.
ĐAM ĐỘC NGOẠN THỊ
耽讀翫市,寓目囊箱
Đam độc ngoạn thị, ngụ mục nang tương
易輶攸畏,屬耳垣墻
Dịch du du úy, chú nhĩ viên tường
具膳餐飯,適口充腸
Cụ thiện xan phạn, thích khẩu sung tràng
飽飫烹宰,飢厭糟糠
Bão ốc phanh tể, cơ yếm tao khang
親戚故舊,老少異糧
Thân thích cố cựu, lão thiểu dị lương
妾御績紡,侍巾帷房
Thiếp ngự tích phưởng, thị cân duy phòng
Tạm dịch
- Đam mê đọc sách, ra chợ thưởng thức. Luôn để mắt vào giỏ đựng sách và thùng đựng sách.
- Nói chuyện tùy tiện thật đáng sợ, bên ngoài sẽ có tai nghe trộm.
- Sửa soạn ba bửa ăn trong ngày (thiện: ăn tối, xạn: ăn sáng; phạn: bửa ăn chính/trưa); vừa miệng, no bụng (đầy ruột)
- Lúc no yến tiệc khó nuốt, lúc đói thức ăn kham khổ cũng đủ.
- Bà con họ hàng thân thuộc, bạn bè cũ; già trẻ tùy người mà dùng những thức ăn khác nhau.
- Nàng hầu (vợ lẻ), kẻ bộc dịch lo xe sơi, coi sóc khăn mũ, màn che, phòng ốc.
HOÀN PHIẾN VIÊN KHIẾT
紈扇圓潔,銀燭煒煌
Hoàn phiến viên khiết, ngân chúc vĩ hoàng
晝眠夕寐,藍筍象床
Trú miên tịch mị, lam duẩn tượng sàng
絃歌酒讌,接盃舉觴
Huyền ca tửu yên, tiếp bôi cử thương
矯手頓足,悅豫且康
Kiểu thủ đốn túc, duyệt dự thả khang
嫡後嗣續,祭祀烝嘗
Đích hậu tự tục, tế tự chưng thường
稽顙再拜,悚懼恐惶
Khể tảng tái bái, tủng cụ khủng hoàng
Tạm dịch:
- Quạt làm bằng lụa có hình tròn trông sạch sẽ; cây nến màu trắng bạc có ngọn lửa rực đỏ.
- Ban ngày thì chợp mắt, ban đêm ngủ; Cái xà ngang để treo chuông, khánh làm bằng cây chàm, giá móc đồ bằng ngà voi.
- Ca khúc nhạc với đàn huyền, mở tiệc uống rượu; chén rượu chiêu đãi nâng lên chúc mừng.
- Hoa tay múa chân; vừa vui vẻ, vừa khỏe mạnh.
- Con cháu của vợ chính được nối dõi, kế thừa; chăm sóc chỗ thờ cúng và cúng tề đầy đủ hằng năm.
- Lễ lạy của người có tang thì lạy hai lạy; Sợ sợ vô cùng.
TIÊN ĐIỆP GIẢN YẾU
牋牒簡要,顧答審詳
Tiên điệp giản yếu, cố đáp thẩm tường
骸垢想浴,執熱願涼
Hài cấu tưởng dục, chấp nhiệt nguyện lương
驢騾犢特,駭躍超驤
Lư loa độc đặc, hãi dược siêu tương
誅斬賊盜,捕獲叛亡
Tru trảm tặc đạo, bộ hoạch bạn vong
Tạm dịch:
- Công văn gửi lên quan trên phải giản dị và thiết yếu; việc trả lời phải xem xét tỉ mỉ và rõ ràng.
- Cơ thể dơ bẩn thì nghĩ tới chuyện tắm rửa. Gặp lúc nóng nực thì mong muốn được mát mẽ.
- Con lừa, con la, con nghé và con trâu đực, khi giật mình thì nhảy lên và vượt nhanh về phía trước.
- Trừng phạt, chém đầu kẻ trộm cướp; truy lùng kẻ có tội, bắt sống tên phản nghịch đang bỏ trốn.
BỐ XẠ LIÊU HOÀN
布射遼丸,嵇琴阮嘯
Bố xạ Liêu hoàn, Kê cầm Nguyễn khiếu
恬筆倫紙,鈞巧任釣
Điềm bút Luân chỉ, Quân xảo Nhậm điếu
釋紛利俗,並皆佳妙
Thích phân lợi tục, tịnh giai giai diệu
毛施淑姿,工顰妍笑
Mao Thi thục tư, công tần nghiên tiếu
年矢每催,曦暉朗耀
Niên thỉ mỗi thôi, hi huy lãng diệu.
璇璣懸斡,晦魄環照
Tuyền ki huyền oát, hối phách hoàn chiếu.
Tạm dịch:
- Lữ Bố giỏi bắn cung, Hùng Nghi Liêu giỏi tung hứng bóng; Kê Khang giỏi đánh đàn cầm, Nguyễn Tịch giỏi sáo dài.
- Mộng Điềm chế tạo ra bút lông, Thái Luân sáng tạo ra giấy. Mã Quân kéo léo chế thủy xa, công tử Nhậm có tài câu cá.
- Giải trừ nhiều khó khăn mang lại tiện lợi cho con người; tất cả đều rất quý giá, cao siêu và khéo léo.
- Mao Tường và Tây Thi hiền thục, thùy mị; dù có nhíu mày nhưng cũng xinh đẹp như khi cười
- Hằng năm lại trôi qua vội vàng như mũi tên bắn đi; ánh mặt trời rực rỡ mãi còn chiếu sáng.
- Sao Bắc Đẩu trên cao xoay chuyển; ngày cuối tháng bầu trời tối, rồi ánh trăng sáng dần theo ngày tháng, soi rọi khắp nơi.
CHỈ TÂN TU HỖ
指薪修祜,永綏吉劭
Chỉ tân tu hỗ, vĩnh tuy cát thiệu.
矩步引領,俯仰廊廟
Củ bộ dẫn lĩnh, phủ ngưỡng lang miếu.
束帶矜莊,徘徊瞻眺
Thúc đái căng trang, bồi hồi chiêm thiếu.
孤陋寡聞,愚蒙等誚
Cô lậu quả văn, ngu mông đẳng tiếu.
謂語助者,焉哉乎也
Vị ngữ trợ giả, yên tai hồ dã.
Tạm dịch:
- Như đốt củi truyền lửa, tu đức tích phúc; mãi mãi bình an, tốt lành may mắn.
- Làm đúng theo khuôn phép thì mới lãnh đạo người khác được; biết cúi đầu và ngẫn đầu ở miếu thờ hay cung đình.
- Trên người buột thắt lưng tỏ vẻ chỉnh tề, nghiêm trang; cử chỉ thông thả, ung dung có thể ngữa mặt nhìn xa trông rộng.
- Kiến thức nhỏ bé, kiến văn ít ỏi; loại người dốt nát, tối tâm thì bị đời chế nhạo.
- Bàn về trợ tự thì có YÊN TAI HỒ DÃ