VỊ NHO TƯỚNG PHONG LƯU LỪNG DANH KIM CỔ
“Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
Một mình đứng giữa cheo leo
Ai mà chịu rét thì trèo với thông”
Vừa là tướng tài, thơ phú lại hay, khí chất tài tử phong lưu nức tiếng, ông chính là nhân vật nổi bật trong sử Việt thế kỷ 19.
Ở Trung Quốc thời Đường có Quách Tử Nghi. Đó là một tướng quân công – nghiệp hiển hách, cũng lại là nhà thơ nổi tiếng tốt chữ, phong lưu tài tử đến già. Nước Nam ta cũng có một “Quách Tử Nghi” như thế. Ông chính là đệ nhất phong lưu tài tử với hàng nghìn bài thơ phú bất hủ.
“Ra ngoài tướng Võ, vào triều quan văn”, ông tài kiêm văn võ, góp phần an định nước nhà suốt mấy chục năm sự nghiệp. Ông chính là Nguyễn Công Trứ.
Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858), tự Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hy Văn. Ông sinh ngày mồng Một tháng 11 năm Mậu Tuất (1778), con của Đức Ngạn Hầu Nguyễn Công Tấn. Các cụ xưa nói: “Trai mồng một, gái ngày rằm” quả không sai. Vừa mới lọt lòng mẹ, Công Trứ đã không biết khóc, mặc cho người nhà dùng đủ cách. Nhưng một khi đã cất tiếng khóc thì oang oang như tiếng chuông đồng.
Người cha Công Tấn vốn hiếm muộn, nay ở tuổi lục tuần có quý tử thì mừng khôn xiết. Là một nhà Nho hay chữ, nghĩ đây cũng là một điềm báo điều hỉ, ông chọn cho cậu quý tử bướng bỉnh tên huý là Củng (nghĩa là bền chặt, vững vàng), còn tên chữ là Trứ (nghĩa là rõ ràng, nổi trội).
Cậu bé đó chính là Uy Viễn Tướng công Binh bộ Thượng thư Nguyễn Công Trứ, tương lai kiêm nhà thơ trác việt. Cả cuộc đời của cậu Củng Trứ về sau quả đúng như những điều người cha già mong mỏi: bền gan vững chí và lẫy lừng sáng tỏ.
Để độc giả có thể hình dung rõ hơn về con người của Nguyễn Công Trứ, chúng tôi thiết nghĩ dùng những điển tích, giai thoại về ông để minh họa là phải hơn cả. Dưới đây là những câu chuyện nổi tiếng, đã được lưu truyền hàng trăm năm về nhân vật chính của chúng ta.
Chạm trán quan Tuần phủ
Đối với các đệ tử Nho gia thì việc lập thân, tạo dựng công nghiệp cho hậu thế chính là lý tưởng cả đời. Nguyễn Công Trứ một đời mang trong lòng một bầu nhiệt huyết kinh bang tế thế. Cái chí khí ấy đã thể hiện ra ngay từ lúc nhỏ.
Vừa mới lên tỉnh học được ít lâu, một chiều nọ đẹp trời, nho sinh Củng lang thang dạo phố bỗng bắt gặp một đoàn xe ngựa của quan Tuần phủ đi hành hạt, dù lọng nghênh ngang, tiền hô hậu ủng. Cậu vô tình lớ ngớ cản đường đoàn người ngựa và bị toán lính hầu bắt tới trình quan về tội vô lễ. Cậu trò vừa bị giải đến nơi, đã nghe quan quát hỏi:
– Sao dám thất lễ với bản quan?
– Bẩm quan lớn, tiểu sinh nguyên học ở trường làng, vừa mới lên tỉnh chưa biết rõ các nghi lễ nên mới vô tình vô lễ, xin quan lớn dung thứ.
– À, nếu cậu đúng là sĩ tử trường Đốc học, bản quan sẽ ra một vế đối. Cậu đối hay thì được tha, bằng không sẽ bị bắt giam về tội “phạm thượng”!
Rồi quan đọc:
– “Khách khoa bảng, khách văn chương, giữa quan khách, khách lại gặp khách”.
Không nghĩ ngợi lâu, Nho Củng ứng khẩu đối ngay:
– “Ai anh hùng, ai hào kiệt, trong trần ai, ai dễ biết ai!”
Tuần phủ nghe xong hết lời khen cậu là kẻ thiếu niên mà chí khí lớn lao, nên chẳng những tha lỗi cho mà còn thưởng thêm một quan tiền đồng.
Rồi quan quay sang nói với các vị đồng hành:
– Quả là “Khả úy đoan đoan đích hậu sinh”.
Đây vốn là một câu cổ thi, nghĩa là: “Kẻ hậu sinh này rất đáng sợ”
Dùng thơ khất nợ
Tuy tài hoa là vậy, nhưng ông trời cũng không vì thế mà ưu ái cho Nguyễn Công Trứ, thậm chí còn khắc nghiệt với ông hơn bất cứ khách công danh nào. Ông đi thi nhiều lần mà không đỗ đạt nên vẫn sống nghèo khổ cho đến tận trung niên, năm hơn 40 tuổi.
Tuy vậy, Nguyễn Công Trứ vẫn luôn lạc quan, vui vẻ dù phải chịu một cuộc sống túng quẫn, đúng với tinh thần “An bần lạc đạo” của kẻ sĩ quân tử Nho gia. Chuyện ấy đến nay vẫn còn truyền lại nhiều giai thoại.
Sau một lần đánh tổ tôm, Nguyễn Công Trứ bị thua rồi mang nợ. Chủ nợ là một ông già, đòi mãi không được, cuối cùng đến tận nhà ăn vạ. Trước mặt ông lão, chàng nho sinh nghèo lục lọi hết mọi rương hòm xem có gì đáng giá đem đi cầm, nhưng khốn thay chỉ thấy có mấy quyển sách đã cũ sờn. Bí quá, chàng ta đành phải “cầu cứu” đến… Nàng Thơ, tức cảnh ngâm nga:
Thân “bát văn” tôi đã xác vờ
Trong nhà còn biết “bán chi” giờ?
Của trời cũng muốn, “không thang” bắc
Lộc thánh còn mong “lục sách” chờ
Thiên tử “nhất văn” rồi chẳng thiếu
Nhân sinh “tam vạn” hãy còn thừa
Đã không “nhất sách” kêu chi nữa?
“Ông lão” tha cho cũng được nhờ!
Ông lão vốn rắp tâm đến đòi cho bằng được nợ, thấy Công Trứ giở thơ thẩn ra đã có ý bực. Nhưng rồi nghe hết cả bài thì thấy thơ hay quá, lại tài nữa, câu nào cũng có tên một quân bài tổ tôm mà lại nói lên được cảnh học trò nghèo kiết không tiền… Vừa thương vừa phục, ông lão đã bằng lòng cho nhà thơ khất nợ.
“Ba vạn anh hùng đè xuống dưới. Chín lần thiên tử đội lên trên”
Nhà Nho chân chính không sợ khó khổ, nghèo hèn cũng không sợ mất mạng. Họ chỉ sợ không giữ được tiết tháo của mình. Thế nên những lúc nghèo khổ nhất hay đối mặt với cường quyền chính là lúc họ thể hiện sự cứng cỏi, khí phách của mình. Nguyễn Công Trứ chính là một người luôn như thế.
Một lần có việc đi xa, trời rét, chàng học trò Nguyễn Công Trứ ghé vào quán nước bên đường nghỉ chân, rồi rúc vào ổ rơm trong quán ngủ nhờ. Vừa lúc đó, Tả quân Lê Văn Duyệt dẫn một đạo quân đi ngang qua cũng ghé vào quán. Những người trong quán thấy quan quân rầm rập thì sợ hãi nép tận vào các góc xa, riêng Nguyễn Công Trứ vẫn đắp chiếu nằm trên ổ rơm ngủ khì như không có chuyện gì xảy ra.
Một viên quản cơ thấy vậy nạt nộ om sòm, hất chiếu đánh thức kẻ vô lễ dậy. Chàng thư sinh điềm nhiên, chậm rãi ngồi lên, không tỏ vẻ gì là sợ hãi cả. Thấy vậy, Tả quân Lê Văn Duyệt lấy làm lạ, hỏi:
– Nhà ngươi là ai, mà thấy đạo quân của ta đến vẫn cứ nằm lì, không đứng dậy chào cho phải phép? Ngươi không sợ ta trách phạt hay sao?
Chàng học trò khôn khéo đáp lời quan:
– Bẩm quan lớn, tiểu sinh vốn biết đạo quân của ngài là đạo quân nhân nghĩa, chẳng vô cớ làm hại ai bao giờ, nên không việc gì phải sợ. Vả lại, tiểu sinh là học trò, đi đường xa mệt, gặp trời mưa lạnh lại có ổ rơm ấm quá nên trót ngủ quên mất ạ.
Thấy Nguyễn Công Trứ quả có dáng vẻ nho nhã, Tả quân liền bảo:
– Nếu ngươi đúng là học trò thì hãy làm vài câu thơ vịnh cảnh nằm ổ rơm đắp chiếu như vừa rồi, nếu hay ta sẽ tha, bằng không sẽ chịu phạt đó.
Cậu Nho sinh dường như chỉ đợi có thế, ứng khẩu đọc ngay:
Ba vạn anh hùng đè xuống dưới
Chín lần thiên tử đội lên trên.
“Ba vạn anh hùng” chính là chơi chữ, lấy từ ý “anh hùng rơm”. “Chín lần thiên tử” lấy từ ý “chiếu thiên tử” (chiếu chỉ của vua). Tả quân Lê Văn Duyệt nghe xong, giật mình khen hay, hỏi tên tuổi, thưởng cho Trứ một số tiền rồi thả cho đi, và ghi nhớ mãi trong lòng về người học trò kì tài ấy.
Chí làm trai phỉ sức vẫy vùng nơi bốn bể
Trải qua nhiều năm trui rèn, cuộc sống bần cùng và những thất bại liên tiếp không làm nhụt chí Nguyễn Công Trứ. Mãi đến năm 42 tuổi, cuối cùng ông cũng đã đỗ đạt, bắt đầu con đường công danh huyền thoại của mình.
Có thể nói, trong lịch sử Việt Nam, hiếm có vị quan nào mà có một sự nghiệp đa dạng và thăng trầm, thi vị như Nguyễn Công Trứ. Ông xuất thân là quan văn, vậy mà lại lãnh ấn Tướng quân đi dẹp loạn, giúp dân khai hoang mở cõi cũng như giúp vua trị quốc. Đúng như ông tự thuật một cách trào phúng về cuộc đời mình:
“Khi Thủ khoa, khi Tham Tán, khi Tổng Đốc Đông
Gồm Thao Lược đã nên tay ngất ngưởng
Lúc Bình Tây, cờ Đại Tướng, có khi về Phủ Doãn Thừa Thiên..”
(Bài ca ngất ngưởng- Nguyễn Công Trứ)
Dù là ở bất kỳ vị trí nào, Nguyễn Công Trứ cũng làm tốt trách nhiệm của mình, là một vị quan thanh liêm và mẫu mực. Ông đã từng có công dẹp yên nhiều cuộc nổi dậy của Phan Bá Vành ở Nam Định, Nùng Văn Vân ở Tuyên Quang, Lê Duy Phương ở Thanh Hoá, hay cuộc tiễu phạt ở Quảng Yên…
Nguyễn Công Trứ còn hết sức chăm lo cho cuộc sống dân nghèo với quan niệm lấy dân làm gốc, chỉ có yên dân mới dẹp được phản loạn. Ông đề nghị đặt “nhà học” cho con em nhân dân được học hành, đặt “xã thương” ở các làng để quản lý thóc gạo, “khi nào giá cao thì bán, giá hạ thì mua, gặp lúc thuỷ hạn bất thường, đem thóc chiếu cấp cho từng người, năm nào được mùa sẽ theo số đã cấp thu lại để chứa trữ” (Sớ nói về năm quy ước trong làng, năm 1829).
Ông tố cáo: “cái hại cường hào làm cho đến nỗi con mất cha, vợ mất chồng, tính mệnh phải thiệt hại, tài sản phải sạch không” và đề nghị triều đình “trị tội rất nặng” (Sớ nói về tệ cường hào, năm 1828)…
Trong những việc ông làm, có ích lợi thiết thực và to lớn cho nhân dân hơn cả là công cuộc khẩn hoang. Ông tấu xin nhà nước cấp tiền gạo để chiêu tập dân nghèo khai khẩn. Ông hướng dẫn nông dân khai phá một vùng đất đai rộng lớn ven biển thuộc các tỉnh Ninh Bình và Thái Bình, lập nên hai huyện Tiền Hải và Kim Sơn. Ông còn chỉ huy việc khai khẩn vùng đất ven bờ biển tỉnh Quảng Yên, Hải Dương…
Nhân dân các vùng khai hoang rất biết ơn ông. Họ lập đền thờ ông ngay khi ông còn sống. Trong đền kỷ niệm công cuộc dinh điền ở làng Đông Quách, huyện Tiền Hải, Thái Bình, có câu đối về công lao của ông rất cảm động:
“Đặc địa sinh từ, Đông Ấp nhất bách niên kỷ niệm
Kình thiên trụ thạch, Hồng Sơn thiên vạn cổ tề cao”
Dịch nghĩa:
Trên đất dựng sinh từ, làng Đông Ấp trăm năm kỷ niệm
Giữa trời trơ cột đá, ngọn Hồng Sơn muôn thủa sánh cao.
Ngoài vòng danh lợi vinh liền nhục
Đến Quảng Ngãi, Nguyễn Công Trứ, lúc đó chỉ là một tay lính trơn, thản nhiên vào trình diện quan Tổng đốc sở tại. Vốn vì trước kia đã có lần chịu ơn Nguyễn Công Trứ nên viên quan đầu tỉnh tiếp đãi ông lính rất tử tế. Thấy tình cảnh một người từng là Thượng thư nay thất thế đến mức như vậy thì tỏ ra rất áy náy, bất yên, muốn cho phép cụ cởi đồ lính ra, nhưng Nguyễn Công Trứ nói:
– Xin ngài cứ để vậy. Lúc làm Đại tướng tôi không lấy làm vinh, thì nay làm tên lính tôi cũng không lấy làm nhục. Người ta ở địa vì nào, có nghĩa vụ đối với địa vị ấy, làm lính mà không mang đồ ấy thì sao gọi là lính được.
Lúc ấy Nguyễn Công Trứ vừa 65 tuổi. Cái tư cách của con người khi làm Ðại tướng chẳng cậy làm vinh mà khi làm lính không lấy làm nhục càng khiến viên quan đầu tỉnh kính phục.
Ông tâu vua, xin xét lại vụ án buôn lậu ở An Giang. Quan Án sát Trần Ngọc Ðao được lệnh điều tra đầy đủ chi tiết, khi trở về kinh tâu trình lại với vua rằng Nguyễn Công Nhàn đã phạm tội vu cáo. Nhàn bị trị tội nặng và Nguyễn Công Trứ lại được bổ nhiệm chức Chủ Sự ở Bộ Hình rồi lại Án Sát Quảng Ngãi, kế đến Thự Phủ Thừa Thiên.
Chẳng phải ngẫu nhiên mà cây tùng được ví như tiết tháo của người quân tử, dẫu có vào mùa đông rét mướt hay sung sướng lúc ấm áp xuân về thì cây tùng vẫn hiên ngang không lời oán trách. Khí khái của Nguyễn Công Trứ là vậy, đó mới là bản sắc thật sự của một nhà nho chân chính.
Trời đất cho ta một cái tài. Giắt lưng dành để tháng ngày chơi
Tuy là một đại tướng quân tài ba, một quan đại thần thanh liêm nổi tiếng nhưng cái làm Nguyễn Công Trứ sống mãi với hậu thế chính là sự phong lưu tài hoa và thi phú của ông từ lúc trẻ bần hàn đến lúc cổ lai hy vẫn không hề thay đổi.
“Khi ca khi tửu khi cắc khi tùng
Chẳng thần thánh Phật Tiên song khác tục”
(Bài ca ngất ngưởng-Nguyễn Công Trứ)
Tương truyền một lần, vì lỡ… si mê người đẹp, cậu học trò Trứ táo gan trêu chọc một tiểu thư xinh đẹp nhưng cũng khá kiêu kì bằng cách dẫm bắn nước bẩn tung tóe lên vạt tấm áo lụa mới tinh của nàng. Bị bắt giải vào trình quan Đốc học là cha của cô gái, chàng nho sinh Nguyễn Công Trứ đã chuộc tội bằng bài thơ tinh nghịch sau:
Thoắt chốc tai nghe một tiếng ồ
Bầu trời vần vũ kín vầng ô
Tưởng rằng gió cuốn màn mây lại
Ai biết trời tuôn lộc nước cho
Khi nãy nắng nôi ra thế ấy
Bây giờ mát mẻ biết chừng mô
Hỡi người ướt áo đừng năn nỉ
Có rứa rồi ra mới được mùa
Cả hai cha con quan Đốc học nghe thơ xong tha luôn tội cho Nguyễn Công Trứ, tiểu thư còn đỏ ửng má cúi đầu mỉm cười kín đáo
Lời kết:
Nguyễn Công Trứ là hình mẫu đặc biệt nhất trong số tất cả nhà nho trong lịch sử Việt Nam. Lời khen tiếng chê dành cho ông nhiều ngang nhau từ lúc ông sinh ra cho đến hàng trăm năm sau khi mất.
Dù đứng trước muôn vàn bão tố như vậy, điều khiến người ta cảm phục nhất là chưa hề thấy ông thể hiện thái độ tiêu cực nào với cuộc đời. Ngay khi đắc ý nhất, ông cũng coi như thế sự như mây nổi, công danh là khói bay, lúc khốn cùng nhất, Nguyễn Công Trứ lại làm thơ tự trào, tìm sự yên vui ngay trong chính hoàn cảnh đó.
Đời người là một giấc mộng, vinh nhục đan xen như mây nổi, như chiêm bao, phải chăng ông Trời muốn qua đó để nhắn nhủ con người thế gian đừng qua mê lạc trong cõi hồng trần cuồn cuộn này:
“Ai công hầu, ai khanh tướng, trong trần ai, ai dễ biết ai”
Dẫu có là công hầu, hào kiệt đi chăng nữa, hết trăm năm ai biết có còn lưu lại chút bụi mờ, ảnh hình nào nơi nhân thế hay không khi thời gian vốn rất vô tình. Có lẽ Nguyễn Công Trứ đã nhìn thấu điểm này nên chẳng chút bận tâm vào công danh lợi lộc, cũng chẳng buồn phiền khi thăng giáng mấy lần:
“Nào nào! Thằng nào sợ thằng nào
Đã sa xuống thấp lại lên cao”
Khi về già ông không cưỡi ngựa mà ngồi trên lưng con bò vàng, đuôi bò treo chiếc mo cau để “che miệng thế gian” mà ngao du trần thế, sống một đời không câu thúc thị phi. Vậy mấy chục năm tranh đấu quan trường kia của ông để làm chi, chẳng phải đã hoài phí cả sao? Không hề hoài phí, đó chính là chức phận mà Nguyễn Công Trứ phải hoàn thành, cũng là tâm nguyện của một nhà Nho với quốc gia, trăm họ.
Làm tận sức hết lòng mà không quan tâm được mất lợi lộc, thế nên mới nói rằng Nguyễn Công Trứ quả thật là một Nho tướng đắc Đạo vậy. Nếu vẫn không tin, bạn hãy nghe đôi câu thơ rất nổi tiếng này của ông, được bao lớp hậu thế ngâm đi ngâm lại:
Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.
Tĩnh Thủy