Nền hội họa phương Đông có ảnh hưởng lớn từ Trung Hoa – nền văn minh cổ đại có lịch sử trên 5000 năm, có khởi nguồn liên quan tới văn hóa Thần truyền, văn hóa tu luyện.
Trong Phần 1 ta đã cùng tìm hiểu về lịch sử phát triển hội họa Trung Hoa và 3 phân khoa trong hội họa của đất nước này. Mời bạn đọc tiếp tục đến với phần 2, tìm hiểu về tư tưởng & nội hàm đằng sau nền hội họa truyền thống Trung Hoa nói riêng và phương Đông nói chung.
Tư tưởng “Thiên nhân hợp nhất” trong hội họa Trung Hoa
Tranh Trung Quốc trên các phương diện nhận thức quan sát, xây dựng hình tượng và thủ pháp biểu hiện đã cho thấy quan niệm triết học và thẩm mỹ truyền thống của người Trung Hoa.
Tranh Trung Quốc coi trọng cấu tứ, đòi hỏi “Ý tại bút tiên” (Tạm dịch: Trước khi cầm bút vẽ thì tâm ý phải sẵn sàng) và tư duy hình tượng, chú trọng sự thống nhất các đối tượng chủ thể và khách thể hình tượng nghệ thuật.
Trong tạo hình thì không hạn chế vào khuôn mẫu, mà coi trọng việc “nằm ở ranh giới kỳ diệu giữa ‘giống’ và ‘không giống’ “, “giống mà như không giống”.
Tranh Trung Quốc lấy kỹ xảo bút mực đặc biệt làm phương pháp thể hiện hình trạng cho đến truyền đạt tâm tư tình cảm. Nó lấy các điểm, đường kẻ, bề mặt để mô tả hình thức, hình dáng diện mạo, khung sườn, phẩm chất, ánh sáng cho đến sắc thái của đối tượng. Chúng đồng thời cũng là một dạng tải thể, có giá trị thẩm mỹ độc lập.
Tranh Trung Quốc trong các tác phẩm nhấn mạnh đến “thư họa đồng nguyên”, chú trọng đến nhân phẩm và sự tu dưỡng của bản thân người họa sỹ.
Trong các tác phẩm cụ thể ưa chuộng sự kết hợp hữu cơ giữa Thi, Thư, Họa, Ấn, đồng thời thông qua hình tượng mà viết thơ văn lời bạt lên trên, biểu đạt nhận thức của họa sỹ đối với xã hội, nhân sinh và nghệ thuật. Điều đó không những có tác dụng làm sâu sắc hơn chủ đề của bức tranh, mà còn là bộ phận cấu thành hữu cơ của nó.

Nguồn: Ntdvn.net, Ảnh: Wikipedia
Trong việc nhận thức và quan sát sự vật khách quan, người nghệ sĩ trong văn hóa truyền thống chọn dùng phương pháp lấy cái lớn để quan sát cái nhỏ, trong cái nhỏ nhìn thấy được cái lớn. Họ còn linh động trong việc quan sát và nhận thức sự vật khách quan, thậm chí có thể trực tiếp tham dự vào trong giữa sự vật ấy, chứ không phải là đứng bên ngoài quan sát, hay giới hạn tại những góc nhìn cố định nào đó. Nó thẩm thấu vào trong ý thức xã hội của mọi người, khiến hội họa có được giá trị nhận thức: “Ngàn năm tĩnh mịch, mở tranh ra thì có thể thấy rõ”. Còn khởi tác dụng giáo dục: “Ác dĩ giới thế, thiện dĩ kỳ hậu” (Tạm dịch: Ngăn cấm những chuyện ác, lưu truyền những chuyện thiện trong nhân thế).
Cho dù là tranh sơn thủy, tranh hoa điểu hay thể loại nào đi nữa, các họa sỹ đều có thể mượn các đối tượng đó để thể hiện ý thức xã hội và sở thích thẩm mỹ, mượn cảnh để thể hiện tâm tình, lấy vật để thể hiện ý chí.
Tranh Trung Quốc chẳng những có lịch sử lâu đời mà còn phản chiếu nghệ thuật truyền thống Trung Quốc, thể hiện được tư tưởng “Thiên nhân hợp nhất” của văn hóa truyền thống Trung Hoa.
Hội họa Trung Hoa- Thần & khí phản ảnh trong từng tác phẩm
Văn hoá truyền thống chuộng “ý” để biểu thị nội hàm bên trong, cũng chính là biểu thị cái bản chất của sự vật sự việc, bản ngã của sinh mệnh, và gốc gác mang tính tự nhiên của tạo hoá. Văn hoá tức là lấy cái hữu hình làm tải thể, nhưng lại thể hiện rõ cái Đạo vô hình. Dùng lối nói cổ mà biểu đạt, thì chính là “văn dĩ tải Đạo”.
Theo cách hiểu của người xưa, văn được coi là đẹp chỉ khi nó mang theo hình thức đẹp, và chứa đựng trong đó cả Đạo.
Đạo này có nguồn gốc từ trời, trời trao cho thánh nhân Đạo, và cũng đồng nghĩa với trao cho con người đạo đức, lễ giáo, cương thường.
“Văn dĩ tải Đạo” – muốn đạt được thế, thì cần khống chế dục vọng, tuân theo luân lý của đất trời.
Có thể nói: “Thơ là hồn của hoạ, thư pháp là cốt của hoạ”. Hợp thư và hoạ lại thành một thể, cũng chính là đặc trưng của lối “chuộng ý” của mỹ thuật xưa, mục đích là lấy vật hữu hình để biểu thị ý, đạt tới được cái ý chân chính trong tả ý.

Nguồn: Trithucvn.org, Public Domain
Vì vậy, “Khí vận sinh động” được một số họa gia thời xưa coi là nguyên tắc cao nhất trong sáng tác hội họa Trung Hoa truyền thống. “Khí vận sinh động” là một trong “Lục pháp luận” (sáu phép đánh giá tranh) của Tạ Hách được chép trong “Cổ họa phẩm lục”. “Cổ họa phẩm lục” là tác phẩm nghiên cứu hội họa cổ nhất và có ảnh hưởng rất lớn đến hội họa Trung Hoa.
Sáu nguyên tắc trong “Lục pháp luận” bao gồm: “khí vận sinh động”, “cốt pháp dụng bút”, “ứng vật tượng hình”, “tùy loại phú thái”, “kinh doanh vị trí” và “truyền di mô tả”.
Khí trong tư tưởng Trung Hoa cổ đại là bản thể của vũ trụ, nó vừa là vật chất, vừa là tinh thần, nó là tương đối vì sự vận động của nó là vĩnh cửu. Trong hội họa, khí vận là cái thần của bức tranh, là giá trị của Đạo ẩn tàng trong bức tranh. Khí vận sinh động vì vậy chính là tiêu chuẩn cao nhất, có thể hiểu là sự vận động của khí sản sinh ra sức sống.
Tranh Trung Hoa chú trọng đến ý tứ, những chi tiết đã được định liệu từ trước, sự liên tục không đứt quãng và tính ăn khớp, mạch lạc. “Khí vận sinh động” không chỉ nói đến thần khí, sự mạch lạc cuốn hút bên trong của bức tranh mà nó còn yêu cầu phải sinh động, giao cấp cho bức tranh một sinh mệnh, truyền cho bức tranh một sức sống, khiến bức tranh đạt được cảnh giới “dùng hình viết thần”, hình thần đầy đủ. Nhìn vào bức tranh người ta thấy được thần khí, ý vị và sự sống của nó. Từ quan điểm này mà xét, có thể thấy “khí vận sinh động” là linh hồn của “Lục pháp”.

“Thanh minh thượng hà đồ” nghĩa là: tranh vẽ cảnh bên sông vào tiết thanh minh. Đây là tác phẩm hội họa khổ rộng của họa sĩ Trương Trạch Đoan vẽ vào cuối đời Bắc Tống. Bức tranh mô tả cảnh sống của người dân Trung Quốc đời Tống tại kinh đô Biện Kinh (Khai Phong ngày nay).
Nguồn: Wikipedia
Trong các triều đại lịch sử, hầu hết các kiệt tác đều do các học giả cao thượng hoặc các ẩn sỹ sống gần gũi, hòa mình với thiên nhiên tạo ra. Bởi họ sống cuộc đời gần với Đạo, gửi gắm tâm đắc trong hội hoạ, đắm mình vào nó, nên tư duy cao cả và tinh thần cao quý này bộc lộ trong các bức tranh. “Khí vận sinh động” trong tranh cao đẹp là bởi chí khí của họạ sỹ cao đẹp, và “khí vận sinh động” có cao thì bức tranh mới tràn trề sức sống và khơi dậy được tâm linh người xem.
Mặc dù “khí vận sinh động” là tiêu chuẩn quan trọng nhất nhưng nó không thể tách rời năm phương pháp khác trong “Lục pháp”. Nó cùng với năm pháp này tạo thành một chỉnh thể.
- “Cốt pháp dụng bút” chính là chỉ cách thức sử dụng kỹ thuật bút để vẽ ra hình dạng và kết cấu của vật thể. Nếu nói khí vận sinh động là “thần” thì cốt pháp dụng bút chính là “hình”. “Hình” là dựa trên kỹ thuật biểu đạt của bút, mục đích là để biểu hiện “thần”, cũng chính là “lấy hình tả thần” (vẽ ngoại hình mà thể hiện được thần thái) do đại danh họa Cố Khải Chi thời Tấn nói đến.
- “Ứng vật tượng hình” chính là ứng với hình tướng của vật mà phác ra hình sao cho đúng.
- “Tùy loại phú thái” chính là căn cứ đối tượng, thời gian, địa điểm mà sử dụng mà sắc khác nhau sao cho phù hợp.
- “Kinh doanh vị trí” chính là chỉ sắp xếp bố cục cho hợp lý. Tranh Trung Hoa xưa coi trọng kết cấu bố cục, chú ý đến các mối quan hệ như chủ và khách, hư và thực, phức tạp và đơn giản, thưa và dày, ẩn và lộ…
- “Truyền di mô tả” là sao chép, vẽ phỏng theo người xưa, tức là chọn thầy mà học, nhằm đạt đến một kỹ năng hoàn chỉnh. Vẽ những thứ có thật từ cuộc sống và vẽ sao chép các tác phẩm của cổ nhân là một phương pháp học tập quan trọng, đồng thời cũng là một phương pháp kế thừa truyền thống.
“Khí vận sinh động” không tách rời với năm phương pháp này, đồng thời năm phương pháp này càng không thể tách rời “Khí vận sinh động”. Nếu không, bức tranh sẽ trở thành một bức vẽ với kỹ thuật thuần túy mà không có linh hồn. Thậm chí, các họa gia cho rằng bức vẽ kỹ nhất cũng chỉ là thứ từa tựa như tranh mà không được gọi là tranh.
Mấu chốt của việc đánh giá một bức tranh là thật hay giả là ở chỗ xem thần và khí của bức tranh. Khi người ta đánh giá một bức tranh là giả thì tức là bức tranh ấy không có thần khí đáng có. “Thần” và “khí” trong bức tranh giả không ăn khớp với nhau, hơn nữa còn chứa đựng những điều không tốt.
Trái lại, năng lượng mà một bức tranh thật mang theo là chính diện, “thần” và “khí” ăn khớp với nhau, cũng chính là “khí vận sinh động”.
Hội họa truyền thống phương Đông- phản ảnh văn hóa Thần Truyền: tu luyện & tín ngưỡng
Trong Lịch đại danh hoạ ký do Trương Ngạn Viễn có viết: “Người vẽ tranh, truyền giáo hoá, khuyên con người đạo lí sống“.
Quan sát sự phát triển của nền nghệ thuật chính thống của Tây phương, dù là hội hoạ, điêu khắc hay âm nhạc, đều liên quan tới các chủ đề về tôn giáo hay tín ngưỡng: là triển hiện của Thần hoặc Phật tính, Thần tính.
Hội họa phương Đông cũng tương tự. Ngoài những tác phẩm thể hiện trực tiếp các thế giới của chư Phật, các câu chuyện cổ Phật dạy, hay các đề tài liên quan tới người tu Phật tu Đạo, những đề tài khác như hoa điểu, sơn thuỷ, rồng, ngựa, cá, tùng, hạc… đều cũng gián tiếp biểu thị Phật tính, mang trong đó đạo lí uyên thâm. Đó mới chính là tả ý hoạ chân chính của cổ nhân.
Trong truyền thống, chủ đề hội hoạ luôn xoay quanh vấn đề liên quan tới tu luyện và tín ngưỡng. Các tài liệu chính thống bàn về nghệ thuật cổ truyền thường đề cập đến việc: để một tác phẩm có chiều sâu thì người hoạ sĩ cần chú trọng tu dưỡng bản thân.
Điều này không chỉ dừng lại ở việc bồi đắp về kĩ thuật, kĩ xảo tạo hình, bút pháp, cách sử dụng lực ngón tay, lực cổ tay, v.v. mà người nghệ sĩ cần đạt được một tâm thái tĩnh lặng và tự tại của một tâm hồn cao thượng dưới nền tảng đạo đức vững chắc.
Phàm là mỹ thuật chân chính thì đều phải có yêu cầu nhất định về kĩ thuật, hội hoạ cũng không ngoại lệ. Ít nhất qua đó có thể phân loại được đâu là hoạ sĩ chuyên nghiệp, bởi có nhiều kĩ thuật phải thông qua khổ luyện mới có thể nắm vững được. Tuy nhiên, đó cũng chỉ dừng lại ở bước “cần”, chứ chưa “đủ”.
Bức tranh đầy đủ nhất, phải là miêu tả được cái bên ngoài thật chính xác mà vẫn lột tả được cái bên trong, đó mới là nghệ thuật chân chính: chứa đựng cả kĩ pháp miêu tả tinh xảo bậc thầy, có thể dựng lại đúng theo hình thái của sự vật hiện tượng, mà đồng thời thấu được cả đạo lí vô hình bên trong chúng.
Cũng là nói: “kĩ thuật chân chính giúp ta tiến tới được Đạo chân chính, nghệ thuật chân chính giúp ta linh thông được với Thần Phật”. Muốn đạt được như vậy, người hoạ sĩ ấy phải cảm nhận được, hiểu được, thậm chí thông suốt được hết thảy.
Chính vì những lẽ đó mà cổ nhân đã tạo ra những tác phẩm mà con người hiện đại khó lòng vượt trội hơn được. Con người hiện đại xem sự tu luyện, lòng kính ngưỡng là “giáo điều”, nhàm chán, bản thân cũng khó lý giải những sự việc liên quan đến Thần, Phật. Người hiện đại xem đó như những chuyện thần thoại để kể lại, chứ không phải là sự chứng thực cho những di sản mà họ đang được kế thừa.
Dần dà, chúng ta dần đánh mất đi những điều tinh hoa trong văn hoá mỹ thuật mấy nghìn năm của toàn nhân loại mà không hề hay biết. Thời xưa gọi đó là: “Thần truyền”.
Nguồn
Minhhui.org: Văn hóa Thần truyền: Lịch sử lâu đời của nghệ thuật hội họa Trung Quốc
Trithucvn.org: “Khí vận sinh động”: Cái thần trong hội họa Trung Hoa
Trithucvn.org: Tản mạn về một thủ pháp miêu tả trong hội họa
Ntdvn.net: Hội hoạ Truyền thống phương Đông (P1): Bút pháp ‘tả ý’ và ‘văn nhân’
Ntdvn.net: Hội hoạ Truyền thống phương Đông (P2): Tại sao chủ đề hội hoạ luôn xoay quanh tu luyện và tín ngưỡng
Wikipedia: Tranh thủy mặc
Tourtrungquoc.net.vn: Nghệ thuật hội họa truyền thống trung hoa
Epochtimesviet.com: Hội họa cổ đại triển hiện nét bút thần kỳ, khiến bức hoạ trở nên chân thật